Trình bày ngắn gọn những nét chính về cuộc đời và sáng tác của tác giả Nguyễn Khuyến

Ai giúp mình đề văn này với: trình bày ngắn gọn nhữg net chính về cuộc đời và sáng tac của tác gia Nguyễn Khuyễn. Mình đang cần gấp
fellit
fellit
Trả lời 14 năm trước
Trong văn học Việt Nam, Nguyễn Khuyến là một hiện tượng đặc biệt. Ông vừa là nhà thơ trữ tình xuất sắc, vừa là nhà thơ trào phúng hàng đầu; vừa là một đại khoa triều quan vừa là một thôn dân thực thụ; vừa coi mọi chuyện trên đời như không có gì đáng bận tâm lại vừa mang trong lòng một mối ưu hoài năm canh nhỏ lệ. Có thể nói, Nguyễn Khuyến là nhà thơ đầu tiên và thành công nhất về quê hương làng cảnh Việt Nam. Nguyễn Khuyến tên thật là Thắng, sinh ngày 15-2-1835, quê làng Yên Đổ huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông từng đỗ đầu kỳ thi hương ở Nam Định năm 1864 (Giải nguyên). Năm 1871 đỗ đầu thi Hội (Hội nguyên) rồi đỗ đầu luôn thi Đình (Đình nguyên) nên người ta gọi là Tam nguyên Yên Đổ. Năm 1865, sau khi trúng Giải nguyên, ông vào Huế thi Hội không đỗ, bèn đổi tên từ Thắng sang Khuyến để biểu thị ý chí quyết tâm mạnh mẽ hơn. Tên Nguyễn Khuyến có từ đó. Ông được bổ làm Toản tu Quốc sử quán rồi Tổng đốc Sơn Tây năm 1883. Nhưng trên đường nhậm chức, ông vin cớ đau mắt, cáo quan luôn từ đó. Vẻn vẹn, ông chỉ làm quan có 12 năm. Vì sao con người nỗ lực phấn đấu học để làm quan lại cáo quan về sớm, lúc tuổi năm mươi? Đơn giản vì lý tưởng của nhà nho là phò vua giúp nước, nhưng thời của Nguyễn Khuyến, nước không còn mà vua cũng chẳng ra vua. Từ năm 1883-1885, chỉ trong ba năm mà triều đình nhà Nguyễn thay đến bốn vua. Vị vua yêu nước là Hàm Nghi thì bị thực dân Pháp bắt. Năm 1882, Hà Nội thất thủ lần thứ hai, tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết. Ngày 25-7-1883, triều đình Huế phải ký Hiệp ước Hác-măng, đặt Việt Nam dưới quyền "bảo hộ" của thực dân Pháp. Người thống trị thực chất ở đất nước lúc đó là thực dân Pháp. Nguyễn Khuyến sớm nhận ra điều đó: Vua chèo còn chẳng ra gì, Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề. Ông không muốn làm thằng hề, thằng hèn mà tìm một con đường để giữ lấy cốt cách, lấy đạo của mình. Về nghệ thuật văn chương, các nhà nghiên cứu từ trước tới nay đều hết sức ca ngợi và trên thực tế, các tác phẩm của ông đã sống, đã thành một phần tâm thức của dân tộc. Từ quan, bất hợp tác với thực dân Pháp, dùng ngòi bút để phơi bày những tội ác của thực dân và quan lại xấu xa, những giả trá, đen bạc của xã hội thời bấy giờ, giữ tấm lòng trong sạch và ngay thẳng cho đến cuối đời - đó đã là một nhân cách lớn. Bi kịch của Nguyễn Khuyến không phải là bi kịch của một cá nhân, mặc dù ông không được thi thố tài kinh bang tế thế của mình, mặc dù ông đã có lúc đói ăn. Khi có người cho một miếng thịt, ông đã viết: Cho ta thịt không phải sợ gì ta Mà chỉ vì thương ta riêng một mình đói bụng Bồi hồi khó nói ra lời Ta đành cầm lấy thịt rồi ôm mặt khóc. (Tặng nhục) Ông từ quan, nghe bạn bè từ quan, nhất là khi đọc thư Đỗ Huy Liệu, bỏ chức Bố chánh Bắc Ninh, Nguyễn Khuyến đã thốt lên: "Đạo ta có lẽ chưa cùng chăng, luân thường có lẽ chưa mất chăng"? Nếu chỉ là cá nhân, cá nhân của một nhà nho, nếu chỉ giữ lấy sự trong sạch riêng mình, chỉ theo đúng lẽ xuất - xử; dùng ta ta làm, không dùng hay đời trọc ta ẩn, tự mình biết lấy mình: Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc Tâm trung thường thủ tự kiên kim (Bên ngoài không cần được như ngọc đẹp, cốt trong lòng còn giữ được như vàng cứng) hay: Tấm hồng nhan đem bôi lấm lòa xòa Làm thế để cho qua mắt tục (Mẹ Mốc) Qua được mắt tục nhưng không qua được lòng mình, một tấm lòng yêu nước thương dân như Nguyễn Trãi xưa "bui một tấc lòng ưu ái cũ". Cho nên vang lên trong thơ Nguyễn Khuyến có một tiếng khóc xé lòng buốt ruột: - Ba phần tóc bạc càng thêm tủi Một tấm lòng son vẫn có thừa - Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe... Khóc gì? Vì "Ơn vua chưa chút báo đền, Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời". Không làm gì được cho dân, cho nước mới đáng khóc, đáng hổ thẹn; tấc lòng ấy của nhà thơ đáng được người đời sau cảm thông, kính trọng. Không thể đòi hỏi Nguyễn Khuyến phải đối đầu, phải tìm ra con đường cứu nước vào lúc bấy giờ. Nguyễn Khuyến là người không cố chấp và rất giàu tính thực tế, giàu tinh thần đổi mới. Ngày ở trường phổ thông rồi lên đại học, tôi nghe nhiều thầy giáo cho rằng, trong bài Lụt hỏi thăm bạn, "Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu, Lụt lội năm nay bác ở đâu, Mấy ổ lợn con rày lớn bé, Vài gian nếp cái ngập nông sâu"... là Nguyễn Khuyến chế giễu anh nhà nho mà lo chuyện lợn gà là không xứng đáng và Nguyễn Khuyến tự hào về nếp sống thanh cao của mình "Em cũng chẳng no mà chẳng đói, Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu". Sau này, đọc kỹ hơn về Nguyễn Khuyến, tôi cho rằng đó là lời hỏi thăm chân tình và ân tình. Với các bạn đồng khoa (Dương Khuê, Bùi Văn Quế (tức bác Châu Cầu) Nguyễn Khuyến có một tình cảm rất thắm thiết, thủy chung. Ông từng viết về Bùi Văn Quế "Kim lan từ thuở nhỏ chơi bời, Đôi lứa như ta được mấy người", cho nên không có chuyện "sau bài thơ ấy, hai người không đi lại với nhau nữa". Chú ý đến canh nông, đến lao động sản xuất là sự chú ý thường trực của Nguyễn Khuyến, và ông coi đấy là một nghiệp nhà, nghiệp lớn, là "chí": Các con nối chí cha nên biết Nghiên bút đừng quên lúa, đậu, cà (Ngày xuân dạy các con) Trên con đường trở về với nhân dân, Nguyễn Khuyến đã làm cho văn học Việt Nam mang một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của chủ nghĩa cổ điển trong chủ nghĩa hiện thực. Năm 1985, nhân 150 năm Ngày sinh Nguyễn Khuyến, tôi được về làng Yên Đổ. Những ngõ trúc quanh co, những ao sâu thuyền lá... còn bày ra trước mắt. Tôi hiểu vì sao mà nhà thơ viết được ba bài thơ thu nổi tiếng. Tôi đọc thấy ở nhà thờ ông có đôi câu đối": Hồng Sơn chi ngoại uất giai khí Vị thủy chí kim thành đại giang (Khí tốt của núi Hồng sông Lam (quê gốc của Nguyễn Khuyến) còn bốc lên ngùn ngụt; sông Vị ngày nay đã thành con sông lớn). Một đánh giá thật xác đáng về Nguyễn Khuyến. Hai vùng văn hóa lớn: Nghệ Tĩnh - Nam Định, Hà Nam đã hun đúc nên một Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến đã làm rạng rỡ làng Yên Đổ và quê hương ông. Ông là dòng sông lớn chảy mãi trong văn học, trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Và sự khám phá về ông cũng dường như vô tận.
Kim
Kim
Trả lời 14 năm trước
Nguyễn Khuyến có tên là Nguyễn Văn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Sinh ngày 15-2-1835 (tức 18 tháng Giêng năm Ất Mùi). Ông xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo, hai bên nội ngoại đều có truyền thống khoa bảng. Bên nội quê gốc ở vùng Treo Vọt, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh, di cư ra Yên Đổ, cho đến thời nhà thơ đã được năm trăm năm. Cụ bốn đời Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Mại, đỗ Tiến sĩ, làm quan đến Hiến sát sứ Thanh Hóa. Ông thân sinh nhà thơ là Nguyễn Liễn, vẫn theo đòi nho học, đỗ 3 khoa Tú tài, chuyên nghề dạy học để kiếm sống ở xứ vườn Bùi.Mẹ Nguyễn Khuyến là Trần Thị Thoan, quê làng Văn Khê, tục gọi là làng Ngòi, nay thuộc xã Yên Trung, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thủa nhỏ Nguyễn Khuyến học cha. Năm 1825, đi thi Hương lần thứ nhất cùng với cha, song không đỗ. Ngay năm sau, địa phương có dịch thương hàn, ông mắc bệnh suýt chết. Cha và em ruột, bố mẹ vợ chồng cùng nhiều họ hàng thân thuộc đều qua đời. Gia đình ông lâm vào cảnh “Tiêu điều, xơ xác, đời sống ngày càng đói rét ”. Bà mẹ phải may thuê và đi làm mướn lần hồi, còn ông thường phải “sách đèn nhờ bạn, một ngày học mười ngày nghỉ ”. Từ năm 1854, đi dạy học lấy lương ăn để tiếp tục học và đi thi. Song trong các khoa thi Hương tiếp theo 1855, 1858 đều bị trượt. Có lúc, ông đã nản đường khoa cử, định chuyển nghề dạy học để kiếm sống và nuôi gia đình, thì được người bạn là Vũ Văn Báo nhận chu cấp lương ăn và khuyên đến cùng học với cha mình là Tiến sĩ Vũ Văn Lý ở xã Vĩnh Trụ, huyện Nam Xang (Lý Nhân ngày nay). Bà mẹ ông cũng ân cần, nghiêm khắc khuyên con chớ thoái chí. Do vậy, khoa thi 1864 ông mới đỗ Cử nhân đầu trường Hà Nội. Tiếp theo ông thi Hội các khoa 1865, 1868 đều bị trượt. Ông ở lại Huế, vào học Quốc Tử Giám, khoa năm 1869 lại trượt. Cho đến khoa năm 1871 mới liên tiếp đỗ đầu thi Hội, thi Đình, khi ông đã 37 tuổi. Dưới triều Nguyễn, cho đến lúc đó mới chỉ có hai người đỗ Tam nguyên (đỗ đầu cả 3 kỳ thi), thì Nguyễn Khuyến là một. Nhưng khác với Trần Bích San (quê ở Vị Xuyên, Nam Định), ông phải lận đận gần 30 năm trời đèn sách, với 9 khóa lều chõng, đó là một cố gắng phi thường. Đầu tiên, ông được bổ làm Sử quan trong triều; năm 1873, ra làm Đốc học Thanh Hóa, rồi thăng nhanh lên Án sát tỉnh. Năm 1874, ông phải mang quân chặn quân khởi nghĩa (mà sử cũ gọi là lệ phỉ) phạm vào tỉnh Thanh ở vùng Tĩnh Gia, Nông Cống. Đúng lúc ấy bà mẹ ông mất. Ông phải nghỉ ba năm về quê cư tang mẹ. Hết tang, ông vào triều giữ chân Biện lý bộ Hộ. Năm 1877 lại ra làm quan ngoài, giữ chức Bố chính Quảng Ngãi. Rồi làm Toản tu ở Sử quán, từ 1879 đến 1883, vẫn sống trong cảch thanh bần, lại thêm đau yếu, ông đã có tâm trạng chán ngán cảnh quan trường. Năm 1883, quân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai. Rồi Tự Đức chết (19-7-1883), triều Nguyễn phải ký hiệp ước Harmand ngày 25 tháng 8 năm 1883. Nguyễn Khuyến đã được cử làm Phó sứ sang Mãn Thanh. Ông đã ra Bắc, nhưng chuyến đi sứ ấy bị bãi. Ông lấy cớ đau yếu, xin tạm về quê dưỡng bệnh, thì trung tuần tháng 12 năm 1883, triều Nguyễn cử ông làm tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, song ông không chịu đến nhận chức, mà chính thức cáo quan về nghỉ hưu khi mới 50 tuổi. Ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5-2-1909 (tức 15 tháng Giêng năm Kỷ Dậu), thọ 75 tuổi. + Các tác phẩm gồm có : Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ và nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng. Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau . Có bài tác giả viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ngược lại, ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó xác định vì nó rất điêu luyện. Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuỗm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công.