Cảm nhận của em về tâm hồn của nàng kiều qua đoạn trich Trao duyên và nỗi thương mình của nguyễn du

jdhgjfg
jdhgjfg
Trả lời 13 năm trước

Đoạn trích Truyện Kiều này có nhan đề "Trao duyên" gồm 34 câu (từ câu 723 đến câu 756) được in trong sách giáo khoa môn Văn lớp 10. Đây là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt do có kẻ vu oan, Thúy Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót cho quan lại cứu cha và em. Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh, Thuý Kiều nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả nghĩa, lấy Kim Trọng.

Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, "Trao duyên", ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều.

Mở đầu đoạn thơ là 8 câu tâm sự của Thúy Kiều, về mối tình của mình với chàng Kim. Kể ra, với người xưa, một mối tình thiêng liêng như Thúy Kiều - Kim Trọng thường được giấu kín trong lòng ít khi người ta thổ lộ với người thứ ba. Vậy mà, ở đây, Thúy Kiều phải bộc lộ tất cả với Thúy Vân. Hơn thế nữa, nàng phải lạy em như lạy một ân nhân, một bậc bề trên, phải nói với em bằng những lời lẽ nhún nhường gần như van vỉ:

Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Không phải nhờ mà là cậy, chị nhờ em giúp chị với tất cả lòng tin của chị. Nhờ em nhưng cũng là gửi gắm vào em. Bao nhiêu tin tưởng bao nhiêu thiêng liêng đặt cả vào từ cậy ấy! Cũng không phải chỉ nói mà là thưa, kèm với lạy. Phải thiêng liêng đến mức nào mới có sự "thay bậc đổi ngôi" giữa hai chị em như thế. Nguyễn Du thật tài tình, như đọc thấu tất cả nỗi lòng nhân vật. Nỗi đau khổ vì không giữ trọn lời đính ước với chàng Kim đã buộc Thúy Kiều phải nói thật, nói hết với em, phải giãi bày tất cả. Bởi vì không có cách nào khác là phải nhờ em. Gánh tương tư đâu có nhẹ nhàng gì, thế mà vì mình giờ đây bỗng giữa đường đứt gánh, ai mà không đau khổ. Nhưng, gánh nặng vật chất thì san sẻ được, nhờ người khác giúp đỡ được, còn gánh tương tư mà nhờ người khác giúp đỡ cũng là điều hiếm thấy xưa nay. Vì vậy, Kiều mới phải cậy em, mới phải lạy, phải thưa, vì nàng hiểu nỗi khó khăn, sự tế nhị của gánh nặng này. Rõ ràng, Thúy Vân cũng phải hi sinh tình yêu của mình để giúp chị. Trong hoàn cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái. Tuy nhiên, Thúy Vân vốn là cô gái vô tư, thơ ngây trong gia đình họ Vương lúc vạ gió tai bay, Thúy Kiều phải giành cho mình phần hi sinh lớn hơn; không chỉ hi sinh tình yêu mà hi sinh cả cuộc đời để cứu cha, cứu em.

Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về. Những kỉ vật thiêng liêng nàng vẫn giữ, minh chứng cho tình yêu của nàng với chàng Kim, dễ gì trong phút chốc lại phải trao sang tay người khác, cho dù người đó chính là em gái mình? Tình yêu đôi lứa vốn có chút ít ích kỉ bên trong, đó cũng là lẽ thường tình. Chiếc thoa với bức tờ mây, Phím đàn với mảnh hương nguyền... vốn là kỉ vật riêng của Thúy Kiều, kỉ vật ấy có ý nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc của nàng. Bây giờ, những kỉ vật thiêng liêng ấy, nàng phải trao cho em, không còn là của riêng của nàng nữa mà đã trở thành của chung của cả ba người. Đau xót làm sao khi buộc phải cắt đứt tình riêng của mình ra thành của chung! Biết vậy nhưng Thúy Kiều cũng đã trao cho em với tất cả tấm lòng tin cậy của tình ruột thịt, với tất cả sự thiêng liêng của tình yêu với chàng Kim. Nàng thuyết phục em mới khéo làm sao:

Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Trên hết giữa chị với em là tình máu mủ; vì tình máu mủ ai nỡ chối nhau? Vì vậy, suốt từ đầu đến cuối đoạn thơ không hề thấy lời nói của Thúy Vân. Thúy Kiều như người đang dốc bầu tâm sự, nàng phải dốc cạn với em mới có thể thanh thản ra đi. Nàng tưởng tượng đến lúc mình đã chết, oan hồn trở về lẩn quất bên chàng Kim. Khi đó, âm dương cách biệt, chỉ có chén nước mới giải được mối oan tình. Lời tâm sự sao mà thương!

Cuối đoạn thơ nàng tưởng như mình đang nói với người yêu. Nỗi lòng vẫn ngổn ngang tâm sự, vẫn còn trăm nghìn điều muốn nói với chàng, vẫn không làm sao kể cho xiết muôn vàn ái ân giữa nàng với chàng; không giữ được trọn lời thề nguyền với chàng, nàng đành gửi chàng trăm nghìn lạy. Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lí của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp dã phụ chàng từ đây!

Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao thế hệ!

Đoạn thơ, trừ những câu đầu tâm sự với Thúy Vân, trao duyên cho Thúy Vân, còn thực chất là đoạn độc thoại nội tâm của Thúy Kiều. Với nghệ thuật thể hiện tài tình, Nguyễn Du giúp người đọc nhìn thấu tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao?

djshg
djshg
Trả lời 13 năm trước

Nguyễn Du (1765 – 1820) quê ở Thăng Long, tên chữ Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc và sống trong xã hội phong kiến – một xã hội thối nát, suy thoái. Chính vì thế mà ông có dịp hiểu biết về lối sống phong lưu xa hoa của giới quý tộc phong kiến và có điều kiện dùi mài kinh sử. Ông được tiếp thu truyền thống học tập và sáng tác của cả gia đình, tạo cho ông vốn học vấn Nho học uyên thâm, lối sống tao nhã, khiến ông hiễu rõ về tầng lớp phong kiến . ‘’Truyện Kiều’’ còn có tên Đoạn Trường Tân Thanh là một trong những sáng tác chính của ông. Bên cạnh đó ‘’Nỗi Thương Mình’’ là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của đại thi hào nguyễn Du. Đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ câu 1229 đến câu 1248, cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan.Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đòi đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm dầy đau đớn : “Khi tỉnh rượu …xuân là gì?” Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngỗn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ cay đắng khi nàng sánh với quá khứ.

Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:
“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”
Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ đươc hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiêu tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy đươc sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh , nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra. Bằng những hình ảnh ẩn dụ : bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu ND cho thấy tình cảnh của TK tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày K phải làm công việc nhơ nhuốc, tiếp đủ các loại khách đến mua vui. Điều này cho ta thấy rõ hơn về nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của TK. Bút pháp ước lệ giúp ND không tránh né số phận thực tế của TK mà vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm trhông của tác giả đối với nhân vật.

ND đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.

Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường , trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục , nỗi ê chề , sự ép buộc , đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới có một khoẳng khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình và cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con người mình. Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn TK. Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phủ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình. Giật mình ko chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong mà nếu ko có thì Kiều cũng giống như tất cả các kĩ nữ khác trong thanh lâu của Tú bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà ko thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của TK ý thức được về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến mà ND muốn truyền tải đến người đọc.
Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nổi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân”
Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đế mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao / giờ sao” tạo nên cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều.
Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rũ màn che” thì lập tức thực tại phủ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu từ ở đây đc ND sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phủ phàng, tàn nhẫn.

Hai câu thơi day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán tất cả:
“Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?”
Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn buôn tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người – khách làng chơi (số nhìu) với chính mình – Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ xuân ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với TK sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của cuộc đời người kỉ nữ mua vui. Từ mặc ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của TK nhưng không làm sao khác được.
“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”

Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong – hoa – tuyết – nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của lầu xanh và trong đó có đủ những thú vui của con người: cầm – kì – thi – họa càng tô điểm cho bức tranh ấy thêm phần nhộn nhịp, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thàn hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.
Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái.. Khi gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật :
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Bằng sự thông cảm lạ lung, và bằng tài năng kì diệu, ND đã viết nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ ND đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của TK cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi long, cảm xúc của TK, khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đề trở nên u buồn, tăm tối, nhuộm màu tang thương.

“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của TK được ND thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai để “mặn mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy sót xa cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của TK giàu long tự trọng coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.
Đoạn trích Nỗi Thương Mình thể hiện khá hoàn chỉnh số phận, tính cách của TK. Thể hiện tập trung tư tưỡng nhân văn của tác giả: cảm thương trước bi kịch của K, khẳng định nhân cách đẹp đẹ của nàng và khẳng định sự ý thức về nhân phẩm và sự ý thức cá nhân.Thể hiện nỗi thương mình của TK, ND cũng thể hiện được nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật với ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật như hòa vào nhau tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả-nhân vật- người đọc.

jkfshrjkg
jkfshrjkg
Trả lời 13 năm trước

Phân Tích, Cảm Nhận Về Đoạn Trích "Trao Duyên
____
Trao duyên, em hỏi, chị thưa...
“Lạy thưa”, “gửi lạy”...tình chưa đoạn tình!
Sao đã “trao”, đã “gửi” mà “tình chưa đoạn tình”?Cảm xúc này có thể lýgiải qua việc phân tích tâm trạng bi kịch của Kiều trong đêm “traoduyên”.
Trước tiên, hãy hiểu Vân đôi chút, bởi lẽ Vân trực tiếp đối thoại, khơi gợi và chuẩn bị cho Kiều bộc lộ tâm sự của mình.
Người ta hay nói rằng nàng Vân “vô tư”(?) có lẽ là ở chỗ này: cả nhàvừa mắc oan, mới “thong dong” một chút, trong khi chị Kiều một mình mộtngọn đèn khuya: “Dầu chong thấm đĩa, lệ tràn thấm khăn” thì em Vân hìnhnhư không chống nổi các quy luật sinh lý cho nên đã có một “giấc xuân”êm đềm!Song đến cuộc trao duyên, bắt đầu ta nghe Vân “ân cần hỏi han”chị, ta lại nghĩ Vân chưa hẳn vô tình, những điều cô hỏi chứng tỏ côhiểu đời, cái đời “dâu bể đa đoan”, biến động khôn lường...Cô biết nỗioan của mình, oan “một nhà” mà cô nghĩ “để chị riêng oan”, cô ngủ mà côvẫn biết chị “ngồi nhẫn tàn canh, nỗi riêng còn mắc mối tình chiđây?”.Nguyễn Du quả đã khéo sắp đặt: để cho Vân hỏi chị trước, hỏi vừađủ mà “trúng đích”, hỏi thể tất “nhân tình”!Và trong suốt cuộc traoduyên, Vân chỉ hỏi mỗi một lần, rồi lẳng lặng mà nghe...
Vậy ra Vân cũng hay đấy chứ, cô đã tỏ ra “biết chuyện” và đã khơi gợi,tạo cơ hội cho chị Kiều bày tỏ, nhưng bày tỏ sao đây trong khi chị Kiều:
Hở môi ra cũng thẹn thùng
Chị buộc phải trao duyên – cái duyên vợ chồng với Kim Trọng cho em!Chuyện ấy, “hở môi ra” đã thẹn.Biết thẹn mà phải nói, nói để mà trao,sự tình đã đến thế thì chị phải thổ lộ thật, thổ lộ hết cùng em.Thậtlòng là chị “đương thổn thức đầy”, “còn vương vấn mối này chưa xong”,thật lòng là chị ngượng, vì vậy mà điều băn khoăn day dứt trắng đêmnay, chị gửi trong mấy lời thành thật:
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai
Ấy chính là cái gút của tâm trạng bi kịch trao duyên vừa là vấn đề “ứcxúc” đặt ra cho chị, và cho cả em giải quyết.Vân thương chị, hẳn là cảmnhận được cái tâm, cái tình trong đó, và hẳn cô đã lờ mờ thấy chị đangcó yêu cầu gì với mình đây...Thúy Kiều thật khó nói, mà lại khó nói hơnkhi phải nói một chuyện mà mình không muốn nói – mà vẫn “phải” nói choem nghe, thật rối rắm, thật khó xử, thật là “đau đầu” cho cả em lẫnchị...Đến nước này thì chị phải nhờ vả em thôi, em có hiểu khôngVân?Tâm trạng Kiều thật sự bối rối, cách giải quyết của Kiều là sự họatđộng về tình cảm chị em mà thôi, chứ không phải là lí trí:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Đến nước này thì chị phải cậy em thôi, chị tin rằng em sẽ bằng lònggiúp chị mà, “em có chịu lời” của chị không?Câu thơ như van xin, nhưcầu khẩn, câu thơ đặt ra vấn đề cho Vân, và Kiều thăm dò ý của em mình,ở đây Kiều không ép, mà Vân cũng chẳng phật lòng, càng dễ cảm thôngcùng chị, Kiều mới yêu cầu em:
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Sao lại thế nhỉ?Theo tôi, có lẽ Vân cảm thấy đột ngột trước yêu cầunày.Người đọc thì cảm thấy như có sự “thay bậc đổi ngôi”, có sự “hóanvị”, em bỗng như là chị, chị bỗng như là em (cúi mình “lạy”).Thì rachính cái yêu cầu kia là xuất phát từ tình thế, tâm trạng chị: vìchuyện tình riêng, chị phải “lạy thưa” em, “cậy” nhờ em, đương nhiên emsẽ là ân nhân của chị!Thúy Kiều lạy thưa là tỏ trước tấm lòng biết ơncủa mình, và cũng là xuất phát từ sự trân trọng của mình trước chuyện“trao duyên” thiêng liêng, hệ trọng này.Câu thơ trên gợi ý có tình, câuthơ dưới cầu khiến có tình, quả nhiên hai câu thơ có sức thuyết phụcđặc biệt!
Kiều bắt đầu kể cho em nghe chuyện tình của mình với Kim Trọng:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Phải rồi, kể từ đó – từ khi gặp chàng Kim, chị đã có tình yêu và tìnhyêu đó ngày càng sâu đậm hơn.Kiểu thổ lộ với em thật thà, không giấugiếm, thật trong sáng, tình yêu của Kiều là do thiên tính – là do trờichỉ định, Kiều “quan niệm” tình yêu của mình khác với “quan niệm” phongkiến, đó là sự cảm nhận yêu thương từ trong trái tim chứ không là sựthức ép.Phải chăng, Nguyễn Du đã cho Kiều ít nhiều nói lên sự tự do yêuthương của con người trong xã hội lúc đó?
Sau mấy câu kể vắn tắt chuyện tình riêng của Kim Trọng, Kiều tiếp tục thuyết phục em bằng cả lí, cả tình:
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vạn hai?
Từ tình cảm của mình, Kiều nói đến cái lí, cái lí phải chọn một tronghai điều để trọn vẹn một điều nào, hi sinh điều nào.Kiều nghĩ Vân sẽ ắthiểu và hiểu thêm tâm trạng bi kịch của mình nữa.
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Em còn trẻ, em hãy thương chị mà thay chị lấy chàng Kim.Ấy chính làtình.Chỉ cần nói mấy tiếng “xót tình máu mủ” là đủ xóay tận vào đáylòng em rồi.Mà em đã “xót tình máu mủ” thì làm sao có thể từ chối “thaylời nước non”?Câu thơ nghe não lòng, nghe như có tiếng kêu thương thốngthiết khiến Vân phải nghĩ đến bổn phận mình phải làm thế nào cho phải...
Kiều mới nói tiếp:
Cho dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Đó là những lời gan ruột của Kiều – một người chị bất hạnh.Lí, tình màKiều giãi bày thật tình như vậy, Thúy Vân chỉ còn biết lẳng lặng mànghe, lẳng lặng mà chấp nhận!
Đây là nỗi đau lớn nhất và đầu tiên trong suốt cuộc đời của Kiều, chonên khi nhắc đến chàng Kim, Kiều vô tình chạm vào nỗi đau sâu thẳm nhấtcủa mình, khiến cô tỏ ra bần thần, rối trí, không điều khiển được mình:
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Đọc câu thơ, ta nghe như có một giọng khang khác.Phải chăng, nội tâmcủa Kiều lúc này phức tạp hơn, nên ngôn ngữ trở nên “bất bình thường”?Ở đoạn trên ta thấy, dù thuyết phục em bằng lí, bằng tình hay bằng cảhai, thì vẫn là ngôn ngữ lí trí, giọng thơ đều đều, trầm trầm. Đến đâuthì lời thơ như nấc như nghẹn, cái “gút” tâm trạng trên kia đã mở radường như được thắt lại ở chỗ này!Tại sao lại có sự khác lạ trong lờinói vậy? Bởi do “chiếc thoa với bức tờ mây” đó thôi, nó là hiện diệncủa tình yêu! Cầm kỷ vật cụ thể ở tay, trao cho em, Kiều bỗng thấy vụt lên hình ảnh Kim Trọng cùng bao kỷ niệm, thề nguyền...và Kiều chợtnghĩ: vật này là của ta, chàng là của ta, sao lại thành của Vân? Có thểnào như vậy được? Tâm lí Kiều lúc này cần một lời thỏa đáng, ít ra làđể tự an ủi mình.Cho nên câu thơ “Duyên này thì giữ vật này của chung”là cả bao nhiêu sự giằng xé, níu kéo khủng khiếp trong tâm hồn, con timcủa Kiều, Nguyễn Du quả thật tinh tế và cũng thật nhân bản trong ý thơ của mình.
Đến đoạn cuối cảnh trao duyên, nội tâm Kiều lại phức tạp hơn nữa. Ta hãynhớ lại: Trước cuộc trao duyên Kiều đã tự cho mình có lỗi với KimTrọng. Nàng vốn là người giàu tình, đa cảm, dễ ứng mộng...Nàng cũng đãtự gọi mình là người “mệnh bạc”. Bây giờ đang trong nỗi đau mất mátkhủng khiếp, bỗng nhiên nàng thấy mình đáng thương nhất, đau đớn nhất,u uất nhất, cay cực nhất.Rồi như người mất hồn, vẫn ngồi đây, mà hồnthi bay xa xăm tận mai sau...Miệng đang nói với em mà như hồn nói vớihồn những điều hình dung, dự báo về “mai sau”!
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trôn ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai...
Thì ra, cái hồn vẫn chưa dứt nổi Kim Trọng! Hồn Kiều còn múon về để“đền nghì trúc mai” để được “rảy xin chén nước” tẩy oan cho hồn! Câuthơ nghe mới não lòng làm sao! Và dễ sợ làm sao! Nguyễn Du thương conngười thác oan, bạc mệnh hay Nguyễn Du nhạy cảm với nỗi đau nhân tìnhmà đã đi xa hơn Thanh Tâm Tài Nhân? Nguyễn Du cho ta thấy cái “hồn”Kiều.

Phân Tích,Cảm Nhận Về Đoạn Trích "Nỗi Thương Mình"
_______
Thử thách lớn nhất và cũng là bi đát nhất của Thúy Kiều chính là hoàncảnh mà nàng đã bị đẩy vào: làm kĩ nữ chốn lầu xanh. Nói gì đến giữ gìntrinh tiết với Kim Trọng, trong hoàn cảnh ấy, ngay cái nhân cách tốithiểu của người đàn bà trong xã hội cũ Kiều làm thế nào để giữ cho khỏibị mai một được? Làm thế nào để viết về thực tế ấy – thực tế của cáicảnh “sống làm vợ khắp người ta” mà vẫn thể hiện được nhân cách củanhân vật, vẫn bộc lộ được thái độ trân trọng, sự cảm thông, vẫn nói lênđược sự đau khổ, thương thân phận mình của nhân vật? Tài năng nghệthuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạomới mẻ của Nguyễn Du đã thể hiện trọn vẹn trong đoạn trích “Nỗi thươngmình”.
“Rường cao rút ngược dây oan
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”
Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lạicho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy,Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất cólẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặtbẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà,Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lạimắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời, đến mức phải rên lên:“Thân lươn bao quản lấm đầu, tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Tiếpđó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ -gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui chonhững kẻ lắm tiền háo sắc. Nguyễn Du đã ghi lại tâm trạng của Kiềutrong thời gian ấy.
Có một điểm cần chú ý ngay từ đầu là trong nguyên tác của Thanh Tâm tàinhân thì trọng tâm của đoạn này: một mặt là bài ca kể về thân phận ThúyKiều từ khi gia biến đến khi bị Sở Khanh lừa và phải đồng ý tiếp khách,mặt khác tập trung vào lời dạy của Tú Bà về nghề kĩ nữ. Đến Nguyễn Du,cách xử lí nghệ thuật đã có sự thay đổi hoàn toàn. Gốc rễ của cách xửlí nghệ thuật độc đáo ấy là cách nhìn mới mẻ và chủ nghĩa nhân đạo mớimẻ của nhà thơ.
Từ câu thứ 5 của đoạn trích, trước đây được đặt tên là “Những nỗi lòngtê tái”. Trong sách giáo khoa mới, “Nỗi thương mình” chỉ vẻn vẹn 20 câunhưng đã nói lên tất cả nỗi tê tái của Kiều nhưng quan trọng hơn làđoạn trích đã thể hiện một tiếng nói nhân văn sâu sắc và tiến bộ: ýthức về thân phận, phẩm giá của nàng Kiều – ý thức thương thân, xótthân lần đầu tiên xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam.
Có một bài toán “nan giải” đặt ra với Nguyễn Du: tác giả muốn tố cáomột cách sâu sắc nơi đã vùi dập Kiều, những thân phận như Kiều. Đó cũnglà một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến mà Kiều đang sống với tấtcả sự nhơ nhớp, mục ruỗng của nó. Cái khó là: nói về cảnh lầu xanhnhưng làm sao cho sự miêu tả hiện thực đó không gây ra phản cảm với độcgiả, không hạ thấp nhân vật, thể hiện được nhân cách, phẩm giá của nhânvật trong sự cảm thông của nhà thơ. Nguyễn Du đã thành công với nhữngxử lí nghệ thuật độc đáo của mình.
Đoạn trích có một kết cấu lôgíc với diễn biến tâm trạng: đoạn đầu giớithiệu tình cảnh trớ trêu của Kiều, “khi tỉnh rượu… nào biết có xuân làgì” đi sâu vào tâm tình, nỗi niềm của Kiều trong cảnh sống ấy, và đoạncuối tả cảnh để cực tả tâm trạng cô đơn, ý thức về thân phận, phẩm giácủa Kiều.
Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là cả một hiện thực tàn nhẫn mà Kiều phải chịu đựng: chốn lầu xanh với những đặc trưng của nó:
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.
Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng nhuần nhuyễn đến mức trở thànhmột công cụ nghệ thuật đắc lực. Bởi vì trên thực tế, nếu phải gọi sựthật bằng đúng cái tên của nó thì Kiều trong đoạn trích này là một côgái lầu xanh. Một loạt từ ngữ dẫu là ước lệ vẫn đủ để thông báo về tìnhcảnh và thân phận của Kiều – mặc dù bốn câu đầu này, nhân vật không hềđược miêu tả trực tiếp: “bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cườisuốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc,Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu. Nguyễn Duđã tìm được một góc nhìn và cách xử lí nghệ thuật đặc biệt: viết vềcảnh lầu xanh nhưng lại dùng những từ và hình ảnh rất nhã. Cách xử línghệ thuật này giúp tác giả vượt qua một vấn đề nan giải, một mặt vẫntả thực, không né tránh hiện thực và cảnh sống thực tế của nhân vậtchính, mặt khác vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật chính ThúyKiều, qua đó thể hiện thái độ cảm thông, trân trọng mà tác giả dành chonhân vật. Thái độ này là nhất quán trong tác phẩm.
Quan sát kĩ hơn những chi tiết nghệ thuật mà Nguyễn Du cố ý bày ra sẽnhận thấy sự mâu thuẫn ẩn chứa bên trong cảnh tượng. Những từ “đầytháng, suốt đêm” là những từ chỉ số nhiều, cho thấy sự nhộn nhịp củalầu xanh, nơi mà Tú Bà “ăn nên làm ra”, lầu xanh như một chốn đang vàodịp “được mùa”, “đắt khách”. Cái xấu như đang ra sức bòn rút tất cảnhững giá trị của con người. Lầu xanh trở thành nơi chôn vùi không biếtbao nhiêu số phận như Kiều. Cảnh lầu xanh thực chất cũng là một phầncủa bức tranh XHPK Trung Quốc thời Minh – Thanh thu nhỏ, cả thời đại màNguyễn Du sống, cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Xã hội ấy cũng đã đượcnói đến qua những tác phẩm cùng thời: Phủ Chúa Trịnh, Hoàng Lê nhấtthống chí, Cung oán ngâm…
Phép đối xứng kết hợp với nghệ thuật tách từ, đảo từ là một sáng tạocủa Nguyễn Du. Đối xứng nhỏ nhất được thiết lập bằng cách tách hai từghép để tạo thành một cụm từ mới, có tác dụng tăng thêm, cụ thể hóa hơnnét nghĩa: tại lầu xanh, bọn khách làng chơi ra vào dập dìu, nhộn nhịp.Tiếp theo là đối xứng trong từng câu thơ: Cuộc say đầy tháng/ trận cườisuốt đêm; Sớm đưa Tống Ngọc/ tối tìm Trường Khanh… kết hợp với những từchỉ số nhiều: đầy tháng, suốt đêm diễn tả cái xô bồ, gấp gáp của mộtcuộc sống ăn chơi, nhốn nháo, dung tục. Thường thì người ta dùng từ“trận” để nói về trận đánh, trận mắng chửi chứ không ai nói là “trậncười”. Bản thân cách dùng từ này đã đủ cho thấy nỗi ê chề, sự ép buộc,đày đọa mà Kiều phải chịu đựng.
Nguyễn Du đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lậpnghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say,trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêutả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốcvô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệtngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ.Nguyễn Du đã “bọc lụa” cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệrất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làmcho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vìchỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhânvật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịuđựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấmlòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh cónhiều người đàn bà, có thể họ an tâm, yên phận và cam chịu với nghềnghiệp để kiếm sống, trớ trêu thay Kiều lại là một nhân phẩm quá đỗicao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềmtrướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, giữa cái xót.