Phân tích ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở việt Nam từ năm 1986 đên nay

Còi lười
Còi lười
Trả lời 16 năm trước
Câu hỏi này theo tớ hiểu thì phân tích công cuộc đổi mới của nước ta từ năm 1986 đến nay theo góc độ triết học. Tớ thử phân tích xem sao nhé! Trước hết phải phân tích được mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đã[:D] Theo định nghĩa vật chất của Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quanđược đem lại cho con người trong cảm giác được cảm giác trong chúng ta chép lại, chụp lai, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” Vậy vật chất là những gì có thuộc tính tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con người và khi tác động vào giác quan của con người sinh ra cảm giác. Điều đó có nghĩa là, đòi hỏi con người về mặt nguyên tắc chung phải thừa nhận sự tồn tại của mọi đối tượng vật chất trong hoạt động nhận thức,v.v…Do đó, về nguuyên tắc không thể có đốí tượng vật chất con người không thể biết được, mà chỉ có những đối tượng vật chtấ con người chưa nhân thức được.Vật chất tồn tại khách quan là tồn tại dưới dạng các sự vật, hiện tượng vật chất cảm tính cụ thể , và khi tác động vào giác quan của con người thì sinh ra cảm giác. Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung sau: -Vật chất-Cái tồn tại khách quan bên ngoìa ý thức, không phụ thuộc vào ý thức; -Vật chất- Cái gây nên cảm giác của con người khi bằng cách nào đó ( trực tiếp hoặc gián tiếp) tác động lên giác quan của con người; -Vật chất-Cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó; Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, nhưng không phải là sự phản ánh giản đơn, thụ động mà là một quá trình phản ánh mang tính tích cực, năng động và sáng tạo. Quá trình đó thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể. Chủ thể nhận thức theo nghĩa rộng là xã hội loài người nói chung, theo nghĩa hẹp là dân tộc giai cấp…cá nhân htể hiện trong hoạt động thực tiễn xã hội. Khách thể của nhẫn thức là hiện thực khách quan nói chung được thể hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Con đường biện chứng nhận thức là mối quan hệ giữa chủ thể và khách thểthông qua hoạt động thực tiễn xã hội. Trong đó khách thể luôn giữ vai trò quyết định đối vối chủ thể, sự tác đông của khách thể vào trong bộ não của con người tạo nên hình ảnh về khách thể. Bản chất của nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não con người, mang tính tích cực, năng động và sáng tạo của chủ thể về khách thể, là quá trình nắm bắt các qui luật và vận dụng các qui luật khách quan trong hoạt động thực tiễn xã hội. Từ những nhận định trên ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng con người có thể nhận thức(biết) được sự vật và hiện tượng trên thế giới vì: sư vật và hiện tượng là một hình thức tồn tại của vật chất, mà vật chất là thực tại khách quan, không lệ thuộc vào cảm giác và khi vật chất được phản ánh vào trong bộ não người một cách tích cực, năng động và sáng tạo thì quá trính nhân thức về sự vật hiện tượng của thế giới khách quan diễn ra. Do vậy mà sự hiểu biết của con người về bản chất của sự vật và hiện tượng trên thế giới là hoàn toàn có thể nhưng không có nghĩa là con người có thể hiểu biết được toàn bộ sự vật và hiện tượng khách quan trên thế giới do vật chất tồn tại khách quan còn nhân thức con người lại là chủ quan và phụ thuộc rất nhiều vào trình độ tiếp thu của mỗi người. --> Áp dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới ở Nước ta từ năm 1986 đến nay. Ta có thể hiểu đơn giản vật chất là nền kinh tế đất nước, ý thức xã hội là tập hợp tất cả nhận thức của cả dân tộc mà thành. Nhìn chung sau gần hai thập niên đổi mới, ngoài hai mục tiêu chính yếu đã đạt được trong thu nhập bình quân và giảm nghèo đói (như đã bàn ở trên), các thành tựu hay thử thách của nền kinh tế có thể tóm tắt như sau: [b]Việt Nam đã thực hiện được nhanh chóng:[/b] •Cuộc cải cách giá cả, bao gồm: giá cả hàng hóa, giá lao động (lương bổng), giá của tiền nội tệ (tỉ giá), hay giá tư bản (lãi suất). •Ổn định được nền kinh tế vĩ mô. •Nỗ lực mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. •Thành công trong giảm tỷ lệ nghèo đói. [b]Các cải cách cơ cấu tương đối chậm chạp hơn như trong:[/b] •Hệ thống pháp lý. •Cải cách hành chính. •Cải cách hệ thống thuế. •Tự do hóa thương mại trong nước cũng như thương mại quốc tế. [b]Cải cách chậm trong:[/b] •Cổ phần hoá các xí nghiệp quốc doanh. •Hệ thống ngân hàng quốc doanh. •Xây dựng thể chế (institutional building) và điều hành vĩ mô Về con người cũng như tổ chức chủ sở hữu trong hoạt động kinh tế, về kinh tế tư nhân , cá thể , tiểu thủ công, tư bản, về việc có nên gộp cả các loại hình hoạt động kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản trong chung một phạm trù là kinh tế tư nhân không, về việc có tư bản nhà nước không, về việc có nên xem hoạt động kinh tế có sự tham gia vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức là kinh tế hỗn hợp chủ yếu của nước ta không, về người cộng sản có được làm kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa không... Tất cả các loại hình kinh tế ấy không phải chỉ có tính khách quan, tự phát theo lợi nhuận mà còn có năng lực chủ quan và ý thức xác định về mặt kinh tế do người lao động làm chủ, vì lợi ích chân chính của nhân dân, của toàn dân tộc, vì đối lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, vì chủ nghĩa xã hội.... Những nhận thức và khái niệm được hình thành và chi phối con người trong hoạt động kinh tế thị trường như: kinh tế là lạnh lùng tiền trao cháo múc, thị trường là chiến trường không tình không nghĩa, chẳng có ý thức hệ nào mà chỉ có thời cơ, thách thức , được ăn cả ngã về không... Từ đó nhận thức chúng ta đã đi ngược với sự phát triển kinh tế. Kinh tế có được là nhờ sức lao động nhưng thực tế, một bộ phận dựa vào quyền lực để làm giàu. Ngay ngành giáo giáo dục chúng ta cũng "làm kinh tế" bằng các cách vậy mới tạo nên sự lệch lạc về nhận thức thầy trò. Lúc này nhà trường và xã hội dần tạo ra sự mất cân đối về nhận thức của giáo dục đó là: Nhà trường dậy học sinh để tạo nên một môi trường xã hội tốt thì ngươc lại môi trường đã tác động trực tiếp đến nhà trường tạo ngay ra sự nhận thức sai về việc học...Bên cạnh những yếu kém trong giáo dục thì còn nhiều vấn đề bất cập khác... như pháp luật, y tế, giao thông... Tóm lại trong quá trình cải cách của Việt Nam từ năm 1986 đến nay thì Vật chất chưa song hành cùng ý thức.. huhu.. tớ phải đi đã nói sau nhé! Bạn có thể tham khảo thêm về tình hình kinh tế của VN từ năm 1986 đến nay ở link sau [b]http://hoithao.viet-studies.info/2005_ChiDieu_1.pdf[/b]
Công Chúa Nhỏ
Công Chúa Nhỏ
Trả lời 12 năm trước

Bài đầy đủ nek:

LỜI MỞ ĐẦU

Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng. Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất và ý thức. Có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đế về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác – Lênin là đúng và đầy đủ đó là: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất.

Trước năm 1986, đất nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn bởi một nền kinh tế trì trệ, một hệ thống quản lý yếu kém cũng là do một phần không nhận thức đúng và đầy đủ về mối quan hệ giữa vận chất và ý thức. Vấn đề này đã được nhận thực đúng sau đổi mới ở đại hội VI, và quả nhiên đã giành rất nhiều thắng lợi sau khi đã chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với mong muốn tìm hểu thêm về vấn đề này, em đã chọn đề tài: “Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vận dụng vào việc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”.

NỘI DUNG

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.

Quan điểm triết học Mác – Lênin đã khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất và ý thức tác động trở lại vật chất để làm rõ quan điểm này chúng ta chia làm hai phần.

1. Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức.

Lê- Nin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện sâu sắc và khoa học về phạm trù vật chất “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại phản ánh và được tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

Từ định nghĩa của Lê Nin đã khẳng định vật chất là thực tại khách quan vào bộ não của con người thông qua tri giác và cảm giác. Thật vậy vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định nội dung của ý thức.

Thứ nhất, phải có bộ óc của con người phát triển ở trình độ cao thì mới có sự ra đời của ý thức. Phải có thể giới xung quanh là tự nhiên và xã hội bên ngoài con người mới tạo ra được ý thức, hay nói cách khác ý thức là sự tương tác giữa bộ não con người và thế giới khách quan. Ta cứ thử giả dụ, nếu một người nào đó sinh ra mà bộ não không hoạt động được hay không có bộ não thì không thể có ý thức được. Cũng như câu chuyện cậu bé sống trong rừng cùng bầy sói không được tiếp xúc với xã hội loài người thì hành động của cậu ta sau khi trở về xã hội cũng chỉ giống như những con sói. Tức là hoàn toàn không có ý thức.

Thứ hai, là phải có lao động và ngôn ngữ đây chính là nguồn gốc xã hội của ý thức. Nhờ có lao động mà các giác quan của con người phát triển phản ánh tinh tế hơn đối với hiện thực… ngôn ngữ là cần nối để trao đổi kinh nghiệm tình cảm, hay là phương tiện thể hiện ý thức. Ở đây ta cũng nhận thấy rằng nguồn gốc của xã hội có ý nghĩa quyết định hơn cho sự ra đời của ý thức.

Vật chất là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của ý thức nên khi vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.

VD1: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động của ý thức cũng bị rối loạn.

VD2. Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh cấp 1, 2, 3 về công nghệ thông tin là rất yếu kém sở dĩ như vậy là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo viên giảng dậy còn thiếu. Nhưng nếu vấn đề về cơ sở vật chất được đáp ứng thì trình độ công nghệ thông tin của các em cấp 1, 2, 3 sẽ tốt hơn rất nhiều.

VD2. Đã khẳng định điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức chỉ là như thế đó.

2. Ý thức tác động trở lại vật chất.

Trước hết ta đưa ra định nghĩa của ý thức: ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ não con người thông qua lao động mà ngôn ngữ. Nó là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người như: Tình cảm yêu thương, tâm trạng, cảm súc, ý trí, tập quán, truyền thống, thói quen quan điểm, tư tưởng, lý luận, đường lối, chính sách, mục đích, kế hoạch, biện pháp, phương hướng.

Các yếu tố tinh thần trên đều tác động trở lại vật chất cách mạng mẽ. VD. Nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất của một dây chuyền sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn của đảng ta thì dân tộc ta cũng không thể giảng thắng lơị trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ cũng như Lê – Nin đã nói “ Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.

Như vậy ý thức không hoàn toàn phụ thuộc vào vật chất mà ý thức có tính độc lập tương đối vì nó có tính năng động cao nên ý thức có thể tác động trở lại. Vật chất góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thấy đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất. Khi phản ánh đúng hiện thực khách quan thì chúng ta hiểu bản chất quy luật vận động của các sự vật hiện tượng trong thế giới quan.

VD1. Hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở hơn 10000C thì con người tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất cách loại thép với đủ các kích cỡ chủng loại, chứ không phải bằng phương pháp thủ công xa xưa.

VD2. Từ nhận thức đúng về thực tại nền kinh tế của đất nước. Tư sản đại hội VI, đảng ta chuyển nền kinh tế từ trị cung, tự cấp quan liêu sang nền kinh tế thị trường, nhờ đó mà sau gần 20 năm đất mới bộ mặt đất nước ta đã thay đổi hẳn.

Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới quan. VD. Nhà máy sử lý rác thải của Đồng Tháp là một ví dụ điển hình, từ việc không khảo sát thực tế khách quan hay đúng hơn nhận thức về việc sử lý rác vô cơ và rác hữu cơ là chưa đầy đủ vì vậy khi vừa mới khai trương nhà máy này đã không sử lý nổi và cho đến nay nó chỉ là một đống phế liệu cần được thanh lý.

II. VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC ĐỐI VỚI CON ĐƯỜNG ĐI LÊN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NƯỚC TA.

1. Để xây dựng xã hội chủ nghĩa phải nhận thấy nguyên lý vật chất quyết định ý thức là phải xuất phát từ thực tế khách quan và hành động theo nó.

Trươc thời kì đổi mới, khi cơ sở vật chất con chưa có chúng ta nôn nóng muôn đốt cháy giai đoạn nên đã phải trả giá. Ở thời kì này chúng ta phát triển quan hệ sản xuất đi trước lực lượng sản xuất mà không nhìn thấy vai trò quyết định của lực lượng sản xuất. Sau giải phóng đất nước ta là một đất nước nông nghiệp với số dân tham gia vào ngành này tới hơn 90%. Nhưng chúng ta vẫn xây dựng các nhà máy công nghiệp trong khi để nhanh chóng trở thành nước công nghiệp hoá trong khi lực lượng sản xuất chưa phát triển, thêm vào đó là sự phân công không hợp lý về quản lý nhà nước và của xã hội, quyền lực quá tập trung vào Đảng, và Nhà nước quản lý quá nhiều các mặt của đời sống xã hội, thực hiện quá cứng nhắc làm cho toàn xã hội thiếu sức sống, thiếu năng động và sáng tạo,. Các giám đốc thời kì này chỉ đến ngồi chơi xơi nước và cuối tháng lĩnh lương, các nông dân và công nhân làm đúng giờ quy định nhưng hiệu quả không cao… Ở đây chúng ta đã xem nhẹ thực tế phức tạp khách quan của thời kì quá độ, chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa là quá trình lịch sử lâu dài và phải trải qua nhiều chặng đường.

Từ đây, chúng ta phải có cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa và cơ sở vật chất phát triển. Chúng ta phải xây dựng lực lượng sản xuất phù hợp quan hệ sản xuất. Chúng ta có thể bỏ qua tư bản chủ nghĩa nhưng không thể bỏ qua những tính quy luật chung của quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Chúng ta cũng phải biết kế thừa và phát triển tích cực những kết quả của công nghiệp tư bản như thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ – môi trường, là cơ chế thị trường với nhiều hình thức cụ thể tác động vào quá trình phát triển kinh tế.

Để vực nền kinh tế lạc hậu của nước nhà, Đảng xác định là phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần để tăng sức sống và năng động cho nền kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Phát triển các quan hệ hàng hoá và tiền tệ và tự do buôn bán, các thành phần kinh tế tự do kinh doanh và phát triển theo khuôn khổ của pháp luật, được bình đẳng trước pháp luật. Mục tiêu là làm cho thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể đóng vai trò chủ đạo. Song song quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì chúng ta cũng cần phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nền kinh tế thị trường ở nước ta còn đang ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng hàng hoá và chủng loại hàng hoá quá nghèo nàn, khối lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường và kim ngạch xuất nhập khẩu còn quá nhỏ, chi phí sản xuất lại quá cao dẫn đến giá thành cdao, nhưng chất lượng mặt hàng là kém. Nhiều loại thị trường quan trọng còn ở trình độ sơ khai hoặc mới đang trong quá trình hình thành như: thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường sức lao động…

Chúng ta cũng cần mở rộng giao lưu kinh tế nước ngoài, nhanh chóng hội nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, AFTA và các hiệp định song phương đồng thời phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Muốn vậy, ta phải đa phương hoá và đa dạng hoá hình thức và đối tác, phải quán triệt trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và không phân biệt chế độ chính trị – xã hội phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất nước trong quanhệ kinh tế quốc dân nhằm khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên thiên nhiên đất nước, tăng xuất nhập khẩu, thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý.

Thu hút vốn đầu tư nước ngoài và phát triển cơ sở hạ tầng cũng là một trong chủ trương quan trọng của Đảng. Để làm điều này thì chúng ta cần giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới các chính sách tài chính và tiền tệ, giá cả, phát triển các thị trường quan trọng như thị trường chứng khoán, thị trường lao động… Nhà nước cũng cần hạn chế việc can thiệp trực tiếp vào sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mà nên tập trung tốt các chức năng tạo môi trường, hướng dẫn, hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp nước ngoài. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ nhưng thông thoáng lành mạnh để tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư của nước ngoài. Tránh tình trạng giấy tờ phức tạp rắc rối, trên bảo dưới không nghe làm cho quá trình giải toả mặt bằng gặp nhiều khó khăn.

Với các chủ trương trên ta nhận thấy vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, đó cũng là bài học quan trọng của Đảng là: “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.

2. Để xây dựng XHCN cũng cần phải hiểu sâu sắc vai trò của ý thức tác động trở lại vật chất

Một rong chủ trương quan trọng là phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác – Lênin là sự thốn nhất giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn của đất nước Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã bảo về và quán triệt chủ nghĩa Mác – Lênin đúng đắn và hiệu quả nhất. Như vậy muốn hiểu sâu sắc và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin, nhất là phép biện chứng duy vật và phải nghiên cứu, nắm vững thực tiễn. Chúng ta phải tập trung suy nghĩ về hai mặt:

Một là, về mục tiêu, lý tưởng và đạo đức lối sống. Đây là yếu tố cơ bản nhất chi phối mọi suy nghĩ, hành động của chúng ta quyết định phẩm chất của người cán bộ, đảng viên trong điều kiện chuyển biến của thế giới và tình hình trong nước. Tư tưởng của Bác khẳng định mỗi người chúng ta hãy nâng cao đạo đức cách mạng, đạo đức công dân và đạo đức của người cộng sản. Cụ thể, chúng ta phải “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, luôn vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh vì lợi ích của cá nhân và cả lợi ích của cộng đồng. Kiên quyết và nghiêm khắc chống chủ nghĩa thực dụng với các biểu hiện tính đa dạng trong nền kinh tế thị trường mở cửa, thực sự góp phần đẩy lùi nạn tham nhũng và tệ nạn xã hội, ngăn chặn sự thoái hoá biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Hai là, về yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc, mỗi người trên cương vị trách nhiệm của mình, phải hoàn thành nhiệm vụ với hiệu quả, chất lượng cao. Vì vậy, chúng ta phải đề cao ý chí phấn đấu, phấn đấu không mệt mỏi, không sợ hy sinh, gian khổ, đồng thời phải ra sức trau dồi tri thức. Cần nâng cao tri thức khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là nâng cao trình độ lý luận về chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao tri thức về khoa học tự nhiên, đặc biệt là mũi nhọn về khoa học công nghệ hiện đại. Phải nắm vững phương pháp nhận thức và hành động của Bác, bám sát thực tiễn, bám sát cơ sở, thâm nhập dân chúng, đánh giá đúng khó khăn thuận lợi, thực trạng và triển vọng. Tự nội lực, vì dân và thực sự dựa vào dân, thực hiện dân chủ lắng nghe và tâm trạng ý kiến của dân mà tìm ra phương sách, biện pháp, nguồn vốn sức mạnh vật chất và tinh thần, trí tuệ để vượt qua khó khăn và thách thức.

Phấn đấu tốt hai mặt trên là chúng ta đã thực sự quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và làm theo di chúc của Người, đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng mà Người đã chỉ đường để xây dựng một đất nước Việt Nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Vai trò ý thức tác động lại vật chất cũng phải được hiện rõ ở khía cạnh phát huy tính năng động và tích cực và vai trò trung tâm của con người, một số giải pháp cho vấn đề này:

Một là, đổi mới hệ thống chính trị dân chủ hoá đời sống xã hội nhằm phát huy đầy đủ tính tích cực và quyền làm chủ của nhân dân.

Hai là, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội phù hợp có ý nghĩa then chốt trong việc phát huy tính tích cực của người lao động như: cơ chế quản lý mới phải thể hiện rõ bản chất của một cơ chế dân chủ, và cơ chế này phải lấy con người làm trung tâm, vì con người, hướng tới con người là phát huy mọi nguồn lực. Cơ chế quản lý mới phải xây dựng đội ngũ quản lý có năng lực và phẩm chất thành thạo về nghiệp vụ.

Ba là, đảm bảo lợi ích của người lao động là động lực mạnh mẽ của quá trình nâng cao tính tích cực của con người: cần quan tâm đúng mức đến lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế của người lao động đảm bảo nhu cầu thiết yếu của họ hoạt động sáng tạo như ăn, ở, mặc, đi lại, học hành, khám chữa bệnh, nghỉ ngơi. Cũng cần có chính sách đảm bảo và kích thích phát triển về mặt tinh thần, thể chất cho nhân dân, tăng cường xây dựng hệ thống cơ chế chính sách phù hợp để giải quyết tốt vấn đề ba lợi ích tập thể, và lợi ích xã hội nhằm đảm bảo lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của người lao động.

Đảng và Nhà nước cũng cần khắc phục thái độ trông chờ và ỷ lại vào hoàn cảnh bằng cách nhanh chóng cổ phần hoá các công ty nhà nước để tạo sự năng động, sáng tạo trong hoạt động cũng như cạnh tranh, nhất là trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Đảng cũng phải cương quyết giải thể các công ty làm ăn thua lỗ như: Tổng công ty sành sứ Việt Nam, Tổng công ty nhựa, Tổng công ty rau quả Việt Nam… để tránh việc nhà nước bỏ vốn vào nhưng lại luôn phải bù lỗ cho các công ty này.

Ngoài ra chúng ta cũng cần nâng cao trình độ nhận thức tri thức khoa học cho nhân dân nói chung và đặc biệt đầu tư cho ngành giáo dục. Chúng ta cần xây dựng chiến lược giáo dục, đào tạo, với những giải pháp mạnh mẽ phù hợp để mở rộng quy mô chất lượng ngành đào tạo, đối với nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo, cải tiến nội dung chương trình giáo dục, đào tạo phù hợp với từng đối tượng, trường lớp ngành nghề. Kết hợp giữa việc nâng cao dân trí, phổ cập giáo dục với việc bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động để đáp ứng nhu cầu cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp trên sẽ kích thích tính năng động và tài năng sáng tạo của người lao động ở nước ta. Sự nghiệp đất nước càng phát triển thì tính tích cực và năng động của con người càng tăng lên một cách hàng hợp với quy luật.

KẾT LUẬN

Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó là cái có trước ý thức, nhưng ý thức có tính lực năng động tác động trở lại vật chất. Mối tác động qua lại này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt động thực tiễn của con người.

Trong thời kì đổi mới của nước ta khi chuyển nền từ tập trung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Với chủ trương này chúng ta đã giành được một số thắng lợi to lớn tuy nhiên vẫn còn một số thiếu sót, đặc biệt ở khâu hành động. Đề ra chủ trương là vấn đề quan trọng nhưng thực hiện nó mới là một vấn đề thực sự khó khăn.

Chúc thành công!