crazzy
Trả lời 16 năm trước
1) Vị trí của cặp phạm trù "cái riêng" và "cái chung" trong phép biện chứng.
Với tư cách một bộ môn khoa học, phép biện chứng có một hệ thống phạm trù riêng. Khi diễn đạt phép biện chứng, chúng ta không những cần phải làm rõ nội dung các phạm trù của nó, mà còn phải xác định đúng vị trí của các phạm trù ấy. Điều này là cần thiết cho việc tìm hiểu phép biện chứng, bởi vì sự hiểu biết về phạm trù trước sẽ là cơ sở cho sự hiểu biết phạm trù sau. "Cái riêng" và "cái chung" là một cặp phạm trù, nó chiếm vị trí nào trong hệ thống các phạm trù của phép biện chứng?
Một số tác giả đã trình bày cặp phạm trù "cái riêng" và "cái chung" sau ba phạm trù "mâu thuẫn", "chất lượng", "phủ định của phủ định". Tuy nhiên, khi trình bày nội dung của ba phạm trù này, nội dung của phạm trù "cái chung" lại được sử dụng, chẳng hạn, ở các câu: mâu thuẫn có tính phổ biến, quy luật sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất là "quy luật phổ biến tác động trong tự nhiên, xã hội và tư duy" (chúng tôi nhấn mạnh - N.N.H). Sử dụng nội dung của phạm trù "phổ biến" ("cái chung") để giải thích nội dung của các phạm trù "mâu thuẫn", "chất - lượng", trong khi nội dung của phạm trù "cái chung" lại chưa được giải thích, điều đó, rõ ràng là không phù hợp với tiến trình của nhận thức và gây khó khăn cho những người muốn tìm hiểu phép biện chứng. Về mặt sư phạm, chúng ta không thể lấy cái mà người đọc chưa biết để giải thích cho họ cái họ chưa biết.
Trong một cuốn sách giáo khoa về triết học Mác-Lênin được xuất bản gần đây, các phạm trù "mâu thuẫn", "chất-lượng", "phủ đinh của phủ định" đã được trình bày sau cặp phạm trù "cái riêng" và "cái chung". Theo chúng tôi, sự trình bày như vậy hợp lý hơn, bởi vì sự hiểu biết về cái riêng và cái chung là cơ sở cho sự tìm hiểu về mâu thuẫn, về chất - lượng, về phủ định của phủ định, chứ không phải ngược lại. Chúng ta có thể và cần phải trình bày về cái riêng và cái chung trước khi trình bày về mâu thuẫn, về chất-lượng, về phủ định của phủ định, còn bởi vì, sự bất đồng về nhiều vấn đề của phép biện chứng đã xảy ra thường có nguyên nhân ở sự mơ hồ và sự không thống nhất trong việc lý giải cái riêng và cái chung. Về điều này, Lênin có nói : "Con người bị rối lên chính là ở trong phép biện chứng của cái riêng và cái chung.
Trong “Bút ký triết học”, ở mục “Vấn đề phép biện chứng”, Lênin nhận xét rằng, phương pháp trình bày phép biện chứng nói chung phải giống như phương pháp mà C.Mác đã trình bày phép biện chứng của xã hội tư sản, nếu như trong "phép biện chứng của xã hội tư sản", C.Mác phân tích trước hết cái đơn giản nhất, quen thuộc nhất của xã hội tư sản - sự trao đổi hàng hóa, thì trong phép biện chứng nói chung cần phải bắt đầu từ cái đơn giản nhất, quen thuộc nhất là bất cứ mệnh đề nào (chẳng hạn, "I-van là một người"...), nhưng trong bất cứ mệnh đề nào cũng đều đã có phép biện chứng của cái riêng và cái chung rồi. Với nhận xét như vậy, có thể nói chính Lênin cũng đã nghĩ tới việc phải bắt đầu phân tích từ cái riêng và cái chung trong sự trình bày phép biện chứng.
2) Quan hệ giữa cái riêng và cái chung với sự vật và thuộc tính.
Ở một số tài liệu, phạm trù "cái riêng" được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù "cái chung" được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Theo cách lý giải này thì muốn hiểu được cái riêng là gì, trước hết phải có được sự hiểu biết về kết cấu vật chất, muốn hiểu được cái chung là gì, trước hết phải có được sự hiểu biết về thuộc tính, về các mặt. Nhưng sự vật và thuộc tính là gì?
Trả lời câu hỏi: "sự vật là gì?" - đó là điều phức tạp, nhưng có thể trà lời câu hỏi: "cái gì là sự vật?" Theo chúng tôi, nói đến sự vật là nói đến, chẳng hạn, "cái cốc này" hoặc "cái cốc kia", "cái nhà này" hoặc "cái nhà kia", “người này" hoặc “người kia"... chứ không phải nói đến "cái cốc", đến "cái nhà" hay đến "người"... một cách chung chung. Khác với sự vật, thuộc tính (tính quy định) là cái tồn tại ở sự vặt mả nhờ đó chúng ta biết được sự vật là gì, sự giống nhau vả sự khác nhau giữa các sự vật như thế nào. Ví dụ: vận động, không gian, thời gian, khối lượng, màu xanh, màu trắng, nóng, lạnh, tốt, xấu, phản ánh, tư duy... là các thuộc tính.
Trong thế giới vật chất có vô vàn sự vật, mỗi sự vật lại có vô vàn thuộc tính. Ngoài các sự vật và các thuộc tính của các sự vật, trong thế giới vật chất không còn cái gì khác, ngay cả ý thức (tinh thần, tư duy) cũng chỉ là một thuộc tính của một dạng vật chất nhất định mà thôi. Sự vật và thuộc tính không tách rời nhau: không có sự vật nào mà lại không có thuộc tính, không có thuộc tính nào lại tồn tại gì ở ngoài sự vật.
Bất kỳ sự vật nào cũng đều chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định, cũng đều có lúc xuất hiện và có lúc mất đi, không có sự vật nào tồn tại vĩnh viễn cả. Một sự vật bất kỳ nào để bao giờ cũng có nhiều thuộc tính, trong đó có một số thuộc tính chỉ tồn tại ở sự vật ấy và mất đi khi sự vật ấy không còn nữa (những thuộc tính nảy được gọi là những thuộc tính riêng), đồng thời có một số thuộc tính không chỉ tồn tại ở sự vật ấy mà còn tồn tại ở nhiều sự vật khác, do đó chúng không mất đi khi sự vật ấy mất đi (những thuộc tính này được gọi là những thuộc tính không phải thuộc tính nào cũng là cái chung). Thuộc tính có hai loại: thuộc tính riêng và thuộc tính chung, song chỉ thuộc tính chung mới đồng nhất với cái chung. Cái chung là thuộc tính chung, ngược lại thuộc tính chung cũng là cái chung (một cái chung là một thuộc tính chung, một thuộc tính chung là một cái chung). Khi xác định quan hệ giữa cái chung và thuộc tính chung như vậy cũng cần hiểu cái chung và thuộc tính chung một cách mềm dẻo. Ví dụ, tính người lả một thuộc tính chung là một cái chung, nhưng tư duy - một trong nhiều thuộc tính tạo thành tính người - cũng là một thuộc tính chung, là một cái chung.
3) Quan hệ giữa cái riêng và cái chung với hiện tượng và bản chất.
Việc tìm hiểu cặp phạm trù "sự vật" và "thuộc tính" là cơ sở để tìm hiểu cặp phạm trù trong "cái riêng” và "cái chung", đến lượt mình, việc tìm hiểu cặp phạm trù "cái riêng" và "cái chung" lại là cơ sở để tìm hiểu cặp phạm trù "hiện tượng" và "bản chất".
Để trả lời câu hỏi : "hiện tượng và bản chất là gì?", chúng ta không những cần phải xác định quan hệ giữa "hiện tượng" với "bản chất", mà còn cần phải xác định quan hệ giữa "hiện tượng", “bản chất" với các phạm trù khác, trước hết với cặp phạm trù "cái riêng" và "cái chung".
Quan hệ giữa hiện tượng với cái riêng có thể được xem giống như quan hệ giữa sự vật với cái riêng: cái riêng là hiện tượng, hiện tượng là cái riêng (một cái riêng là một hiện tượng, một hiện tượng là một cái riêng).
Về quan hệ giữa cái chung với bản chất đang có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng bản chất là cái chung, nhưng không phải mọi cái chung đều là bản chất. Có ý kiến cho rằng, bàn chất là cái chung, ngược lại mọi cái chung đều là bản chất.
Trong "Bút ký triết học", Lênin có trích dẫn quan niệm của Hêgen về vấn đề này như sau: “Cái chung là một quy định nghèo nàn biết nó như là bản chất". Khi dẫn lại quan niệm ấy, Lênin viết: "NB: cái chung" coi như là “bản chất”.
Khi xét quan hệ giữa "cái chung” với "bản chất" cần xét "cái chung” và “bản chất" với tính cách là những phạm trù của phép biện chứng, chứ không phải với tính cách là những, khái niệm của các bộ môn khoa học khác, hoặc của ngôn ngữ hàng ngày. Để xác định xem "cái chung” với tính cách một phạm trù của phép biện chứng có phải là "bản chất" không, chúng ta hãy phân tích mệnh đề “cái cốc này “màu trắng”. Ở đây, như đã biết, cái - cốc - này là một sự vật, là một hiện tượng, là một cái riêng, còn màu trắng là một thuộc tính, hơn nữa là một thuộc tính chung, là một cái chung. Ở mệnh đề "cái cốc này màu trắng" thì màu trắng còn phải được hiểu như một bản chất. Màu trắng là một bàn chất nhưng không phải là bản chất quan trọng của "cái - cốc - này". Một bản chất nào đó ở hiện tượng này có thểlà bản chất cấp 1, song ở hiện tượng kia lại là bản chất cấp 2, ở hiện tượng này có thể bản chất quan trọng, song ở hiện tượng kia lại là bản chất không quan trọng. Nếu xem xét bản chất một cách mềm dẻo như vậy, thì hoàn toàn có thể cho rằng, bất kỳ một cái chung nào cũng đều là một bản chất, dù bản chất để là quan trọng hay là không quan trọng.
4) Cái chung có tồn tại vĩnh hằng không?
Mỗi cái riêng khi xuất thân chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định và khi mất đi không bao giờ xuất hiện lần thứ hai, cái riêng đi không bao giờ xuất hiện lần thứ hai, cái riêng là cái không lặp lại. Khác với các riêng, cái chung tồn tại ở nhiều cái riêng, khi một cái riêng nào đó mất đi thì những cái chung tồn tại ở cái riêng ấy không mất đi, vì nó vẫn còn tồn tại ở nhiều cái riêng khác.
Nhưng vấn đề là: nếu cái riêng chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian có hạn thì cái chung có tồn tại vĩnh viễn, vô hạn trong thời gian không?
Có ý kiến cho rằng những cái chung như cái phản ánh, vận động, quảng tính... thi tồn tại vĩnh viễn, song có một số cái chung chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Ví dụ, theo ý kiến này, tư duy là một cái chung chỉ tồn tại cách đây vài triệu năm (trước đó không tồn tại).
Có ý kiến cho rằng bất kỳ một cái chung nào cũng đều tồn tại vĩnh viễn trong thời gian (vô tận cả về hai phía: quá khứ và tương lai). Nếu A là một cái chung nào đó thì trong thế giới vật chất vô tận không bao giờ không còn những cái riêng chứa đựng cái chung A.
Thế giới vật chất lả vô tận trong không gian và thời gian. Cứ cho rằng cách đây vài triệu năm, tư duy không tồn tại trên Qủa đất thì điều này cũng không chứng tỏ lúc đó tư duy không tồn tại trong thế giới vật chất. Ngày nay, con người đã vươn "tầm mắt" của mình tới một khoảng cách 15 tỷ năm ánh sáng (một khoảng cách mả ánh sảng với vận tốc 300.000 km/s phải đi mất 15 tỷ năm). Trong khoảng cách bao la ấy, rất có thể đã và đang tồn tại một hoặc nhiều hành tinh có điều kiện giống như Qủa đất, nghĩa là có sự sống, thậm chí có tư duy.
Để xác định cái chung có tồn tại vĩnh viễn không, cũng cần lưu ý tới hai dạng của tồn tại: tồn tại dưới dạng hiện thực, hiện hữu vả tồn tại dưới dạng khả năng, tiềm thế. Cho dù cách đây vài triệu năm, tư duy không tồn tại hiện thực, hiện hữu trên Quả đất thì điều đó cũng chưa có nghĩa lả lúc đó nó không tồn tại trên Quả đất dưới dạng khả năng, tiềm thế.
Về vấn đề "cái chung có tồn tại vĩnh viễn không'", F.Enghen đã đề cập đến khi viết rằng: "Chúng ta cũng tin chắc rằng, qua tất cả mọi sự chuyển hóa của nó, vật chất vẫn cứ vĩnh viễn như thế, rằng không bao giờ một thuộc tính của nó lại có thể mất đi, và vì thế, nếu như một ngày kia nó phải hủy diệt mất đóa hoa rực rỡ nhất của nó trên trái đất, tức là cái tinh thần đang tư duy thì nhất định nó lại phải... tái sinh ra cái tinh thần ấy ở một nơi nào khác và trong một thời gian khác.
“Thuộc tính của vật chất” mà Engen nói đến ở trên là thuộc tính của các sự vật trong thế giới vật chất. Không bao giờ một thuộc tính của nó lại có thể mất đi", từ luận điểm này của Engen có thể cho rằng không bao giờ một thuộc tính chung nào, một cái chung nào lại mất đi, lại không tồn tại. Cho rằng "sự sống, tư duy và mọi cái chung đều tồn tại vĩnh viễn trong thế giới vật chất vô tận và vĩnh viễn là một niềm tin, nhưng đó không phải là một niềm tin duy tâm, tôn giáo, mà là một niềm tin khoa học.
Trên đây là một số vấn đề về cái riêng và cái chung. Những vấn đề này ít được trao đổi trên các sách báo triết học nhưng lại cần được làm sáng tỏ. Những ý kiến được trình bày trong bài viết còn phải tiếp tục được trao đổi để tiến tới một sự hiểu biết đầy đủ và đúng biện chứng cái riêng, về cái chung và về phép biện chứng.
Theo Tạp chí Triết học
crazzy
Trả lời 16 năm trước
4- Nội dung - hình thức.
1. Trước tiên cần phải hiểu khái niệm nội dung và hình thức là gì?
- Nội dung là tổng hợp tất cả các mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
- Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bần vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
2. Mối liên hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.
- Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức. Vì nội dung là những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, còn hình thức là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nội dung. Nên nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất. Không có hình thức nào tồn tại thuần túy không chứa đựng nội dung, ngược lại không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức xác định. Nội dung nào có hình thức đó.
Nội dung và hình thức không tồn tại tác rời nhau, nhưng không phải vì thế mà lúc nào nội dung và hình thức cũng phù hợp với nhau. Không phải một nội dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện ra trong một hình thức nhất định và một hình thức luôn chỉ chứa một nội dung nhất định, mà một nội dung trong quá trình phát triển có nhiều hình thức thể hiện, ngược lại, một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau. Ví dụ, quá trình sản xuất ra một sản phẩm có thể bao gồm những yếu tố nội dung giống nhau như: con người, công cụ, vật liệu... nhưng cách tổ chức, phân công quá trình sản xuất có thể khác nhau. Như vậy nội dung quá trình sản xuất được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Hoặc cùng một hình thức tổ chức sản xuất như nhau nhưng được thực hiện trong những ngành, những khu vực, với những yếu tố vật chất khác nhau, sản xuất ra những sản phẩm khác nhau. Vậy là một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung khác nhau.
- Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Vì khuynh hướng chủ đạo của nội dung là biến đổi, còn khuynh hướng chủ đạo của hình thức là tương đối bền vững, chậm biến đổi hơn so với nội dung. Dưới sự tác động lẫn nhau của những mặt trong sự vật, hoặc giữa các sự vật với nhau trước hết làm cho yếu tố của nội dung biến đổi trước; còn những mối liên kết giữa các yếu tố nội dung, tức hình thức thì chưa biến đổi ngay, vì vậy hình thức sẽ trở lên lạc hậu hơn so với nội dung và sẽ trở thành nhân tố kìm hãm nội dung phát triển. Do xu hướng chung của sự phát triển của sự vật, hình thức không thể kìm hãm mãi sự phát triển của nội dung và sẽ phải thay đổi cho phù hợp với nội dung mới . Ví dụ: quan hệ giữa lực lượng sản xuất (nội dung của phương thức sản xuất) với quan hệ sản xuất (hình thức của quá trình sản xuất).
- Sự tác động trở lại của hình thức với nội dung. Hình thức do nội dung quyết định, nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Sự tác động của hình thức đến nội dung thể hiện ở chỗ: nếu phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển; nếu không phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của nội dung.