Việt Nam nơi nhiều tập đoàn công nghệ đã đặt những bước chân vào thì không muốn rút ra nữa vì với việc kiếm tiền cùng nhiều khảo sát trên thị trường như hiện tại rất ấn tượng.
Tốc độ phát triển cũng như phổ cập internet ở Việt Nam thuộc một trong 20 quốc gia có nhiều người sử dụng internet nhiều nhất trên thế giới.
Với 64 triệu người dùng Facebook (chiếm 3% tổng số người toàn cầu), Việt Nam còn xếp thứ 7 trong danh sách 10 quốc gia có người dùng Facebook đông nhất thế giới. Với những con số khá lớn như vậy ta thấy sự phổ biến của mạng Facebook ở Việt Nam, đặc biệt hơn khi với 60% người sử dụng là lứa tuổi thanh, thiếu niên – mầm non tương lai của đất nước. Đối với Google thì nó gần như trở thành công cụ để tìm kiếm mà đa phần dân số Việt Nam nói riêng và toàn thế giới nói chung đều sử dụng.
Tại rất nhiều các quốc gia và cả Việt Nam, đa phần Google và Facebook kiếm tiền nhờ vào quảng cáo. Cụ thể hơn, Google thu tiền từ mỗi click chuột mà người dùng thực hiện khi truy cập vào một website; hoặc định mức giá để quảng cáo cho một website với việc bao thầu các từ khoá. Còn Facebook thu tiền từ quảng cáo trên bảng tin, tin nhắn nhận quà, quảng cáo cho các ứng dụng của bên thứ 3…
Việt Nam đang là miếng mồi béo bở cho thị trường công nghệ với tỷ lệ sử dụng internet cũng như các ứng dụng rất cao.
Phải qua hai phương thức thì việc cung cấp các dịch vụ quảng cáo trực tuyến của Google và Facebook mới được phép trên thị trường Việt Nam. Một là phải thông qua các đại lý tại Việt Nam, khi đó các doanh nghiệp trên sẽ phải thực hiện các nghĩa vụ thuế khi phát sinh doanh thu. Hai là mua bán và thanh toán trực tuyến qua thẻ tài khoản tín dụng. Tuy nhiên, trên thực tế phương thức thứ hai chưa có những quy định rõ ràng nên với bên mua dịch vụ có thể tự hợp thức hoá bằng việc như là mua hoá đơn của một dịch vụ khác. Vì vậy, vói việc kiểm tra thuế thì khiến các cơ quan chức năng không biết được hết được giá trị thực sự của những chi phí phải trả cho các dịch vụ qua mạng.
Bộ Tài chính cho rằng, Ngân hàng Nhà nước cần đưa ra các giải pháp yêu cầu các dịch vụ xuyên biên giới phải thanh toán qua các cổng thanh toán nội địa. Giúp các cơ quan thuế kiểm soát được doanh thu của các dịch vụ này để đề nghị tổ chức nước ngoài khấu trừ nộp thuế có cơ sở tốt hơn.