Những bài văn Thuyết minh của lớp 9

thuyết minh đề 1 : Một danh lam thắng cảnh của đất nước quê hương cách trung tâm thành phố Cà Mau 4km,đi theo đường Lí Văn Lâm là đến vườn chim 19-5.Đương tiết xuân,khung cảnh vườn chim càng thêm trữ tình,thơ mộng.Hằng năm,cứ vào dịp tết,chim chóc lại tụ hội về đây như đã hò hẹn tự bao giờ ĐẤT LÀNH CHIM ĐẬU Bỏ lạnh sau lưng phố xá tấp nập để bước vào vườn chim,điều khiến tôi thích thú nhất đó là bầu k khí thanh bình.Chiều xuống,tiếng chim hót gọi bạn,tiếng chim đập cánh làm xôn xao cả khu rừng. Vườn chim 19-5 đc xây dựng từ năm 1995 nhưng đến khỏan năm 1997 mới chính thức đi vào họat động.Trước đây,vườn chim thuộc Sở Lâm nghiệp quản lí,nhưng nay trự thuộc Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh.Qua các lần mở rộng,hiện diện tích của công viên lên đến 18ha trong đó diện tích vườn chim 8ha.Ông Phạm Hòai Nam,Phó giám đốc vườn chim 19-5 cho biết:Lúc cao điểm ước tính có khỏang 10.000 con,trong đó cò,còng cọc chiếm 80%,số còn lại là vạc và các lòai chim khác. Tuy nhiên,theo ông Lê Hồng Mãnh,Phó giám đốc phụ trách sinh vật cảnh vườn chim 19-5 thì chim quý ở Cà Mau nói chung và ở vườn này nói riêng như diệc,bồ nông khoang cô,sếu…còn rất ít.Hằng năm có khỏang vài ba cặp chim quý như điên điển về đẻ trứng.Ở đây phần lớn các lọai chim sống sống ở đầm lầy như cò,còng cọc,vạc.Thỉnh thỏang có cả chim yến bay về tụ tập.Nhưng có lẽ lòai gây ấn tượng nhất ở nơi này là lòai hạc ( còn gọi là sếu).Hạc là loài hạc rất thiêng của ng Việt,luôn có biểu tượng ở các nơi tôn nghiêm thờ cúng trên mọi miền đất nước.Xưa kia sếu có nhiều ở VN.Nhưng từ năm 1952 thì chúng hòan tòan mất dạng ở vùng Đồng Tháp Mười.Sự biến mất của lòai sếu có thể do sự di dân ồ ạt của con ng và chiến tranh khiến môi trường sống thay đổi nên chúng bay đi nơi khác.Nhiều năm sau này ( chính xác là vào đầu năm 1998),sếu đã quy tụ đông đúc ở rừng tràm Tam Nông,huyện Tam Nông,tỉnh Đồng Tháp.Trong đó sếu đầu đỏ rất quý híêm.Rất tiếc ở vườn chim 19-5 cũng có rừng tràm nhưng sếu ít dừng chân ở đây bởi lẽ đơn giản: sếu chỉ sống ở vùng sinh thái tự nhiên cân bằng. VƯỜN CHIM GIỮA LÒNG PHỐ Đối với ng dân Cà Mau,vườn chim là một niềm tự hào.Tương lai k xa,Cà Mau sẽ là thành phố đầu tiên có một sân chim ở chung với cư dân.Vào những ngày nghỉ nhất là dịp Tết,vườn chim ở đây lại đầy ắp tiếng cười của du khách.Chưa hết,trong khuôn viên vườn chim còn có nhà hàng Trầu Cau đc nhiều đôi uyên ương chọn là nơi tổ chức ngày vui trọng đại nhất trong cuộc đời.Ở một địa phương như Cà Mau,việc tạo lập duy trì và mở rộng đc một điểm du lịch hấp dẫn như thế là đìêu rất quý,đáng khích lệ! Ở Cà Mau hịên còn hai khu rừng đước,rừng tràm cách thành phố Cà Mau khỏang 20-30 km,cũng tập hợp khá nhiều chim.Tuy nhiên,ngay giữa lòng thành phố chỉ có duy nhất điểm này là vườn chim. Còn 1 sân chim ở U Minh nữa,còn đẹp hơn ở đó nhiều nhưng làm biếng víêt quá [:D]
Trả lời 15 năm trước
đề 2 : Một ngành thủ công mĩ nghệ (hoặc một đặc sản, một nét văn hoá ẩm thực) của địa phương mình Đặc sản cà mau Món ăn là bỉêu diễn văn hóa một xứ sở.Món ăn ở Cà Mau mang đậm dấu ấn của vùng đất hoang sơ,trù phú.Sự chế bíên thường ít cầu kì,ít pha chế tinh vi,nhưng bản chất liệu quyết định k phải bất cứ nơi nào cũng có thể tìm đc dễ dàng. BA KHÍA MUỐI Rừng ngập mặn ở Cà Mau,nơi nào cũng có ba khía,nhưng nổi tiếng xưa nay vẫn là ba khía Rạch Quốc.Đong,đếm hoặc cân tùy theo phương thức mua bán từng lúc.Hoặc một tô,hoặc vài chục,hoặc nửa cân ,kí….giá cả chẳng gì làm đắt.Trước khi ăn,ba khía đc ngâm với nước cơm rồi đổ bỏ phần nước này,sau đó xé làm hai,làm tư,rồi làm tám.Giã ít tỏi,vài khúc ớt,đổ vài nửa mũông đường cát,cắc khỏang ba trái chanh.Chanh đc nặn vào tỏi,ớt và đường,hớt bỏ hột,quậy cho tan đều,rới lên ba khía. Giác trưa,đói bụng chẳng còn món nào ngon hơn ba khía với cơm nguội.Nhưng hãy từ từ,đừng quên cách ăn tuyệt diệu sau đây:lấy vỏ ba khía ( thường chứa nhìêu gạch,vàng tươi,thơm lưng) rồi dùng dĩa lùa cơm vào đầy vỏ,trộn đều cho hết gạch rồi trút ra chén.Một chén cơm trộn chừgn ba vỏ ba khía là vừa.Chưa hết,trong các ngoe ba khía đều chứa một bắp thịt nhỏ ( như đùi ếch).Nhai đập cả ngoe cũng đc,nhưng k ngon.Hãy dùng hàm răng cắn đứt hai đầu “ đùi thịt” này,sau đó để lại giữa hai hàm răng hút mạnh,như hút ốc len.Bắp thịt đùi ba khía chạy vào miệng vừa mặn mặn,cay cay,chua chua,ngọt ngọt…thịt ba khía có khác gì thịt cua!Ai đến Cà Mau nhớ ăn một lần ba khía với cơm nguội…nhớ đời! CÁ LÓC NƯỚNG TRUI Múôn ăn cá lóc nướng trui phải chọn vào tháng Chạp chụp đìa ( từ tháng 11 đến tháng 2 âm lịch),lúc này cá rất ngon,thân béo tròn,lòng cá tràn mỡ.Lựa loại cá nặng từ 400 – 500 gram,chặt sậy,hoặc tre,trúc xỏ lụi,rồi cắm cá xuống đất,đuôi chổng lên trời.Không nướng bằng lửa than mà bằng bổi khô như rơm,rậy,cỏ.Cứ tha hồ cho cá cháy thành than.Khi lửa tàn,lật cá nằm sấp lấy đũa cọc trên sống lưg từ đầu đến đuôi.Banh ra làm đôi,cá hãy còn khói bốc nghi ngút,với một mùi thơm đặt biệt! Nước mắm phải lựa lọai thật ngon,pha thêm ít đường,tỏi ớt và nửa trái chanh.Dùng bánh tráng cuốn với rau sống,dấp cá,rau thơm,rau cần,kèm theo chuối chát,khế,khóm xắt mỏng.Ăn cá lóc mà quên vài chai xị đế,lọai rượu Tân Lộc ngâm “Minh mạng thang” ới tắc kè thì thật thiếu điệu nghệ quá chừng!Nhất là khi đc ngồi trên bờ đìa,bờ chuối,gió thổi vi vu,nhất là gió chướng còn mang hơi rạ thơm nồng. LƯƠN ÚM LÁ NHÀU Người TQ gọi con lươn là “sâm đất”.Thật vậy,ăn lươn úm lá nhàu,vừa bổ,vừa mát,ít đau lưng.Lọai lươn cỡ 2- 3 con một kí,làm sạch.Lót cọn xả đập đập ở đáy xoong,sắp thêm ít lớp lá nhàu ( sửa sạch) rồi khoanh lươn tròn trong xoong cho gọn,bắt lên bếp.Đổ nước cốt dừa vào,đun sôi để lửa nhỏ cho lươn mềm Đậu phộng rang vàng giã nhỏ,tương tàu vắt bớt nước tán nhỏ,cho cả hai vào nửa chén nước cốt dừa ( nước nhất) thêm vào một ít muối,xả,ớt ( băm nhỏ),bột ngọt để làm nước chấm.Khi thấy da lươn bị nứt,lấy đũa bẻ lươn gãy là vừa ăn,đừng để quá chín. Múc lưon úm ra tô,để lá nhàu phía dưới,khoanh lươn gọn trong tô,chế lên vài ba muỗng nước cốt dừa ( nước nhất),rải đậu phộng rang giã nhỏ lên trên.Mùi thơm và vị béo của lươn úm lá nhàu,thưởng thức một lần mãi mãi khó quên!Nhớ ăn lúc còn nóng mới ngon.Cả hai thứ này đều mát gan bổ thận.Ăn lươn úm lá nhàu chớ uống bia.Dùng rượu đế Cái Tàu mới thật hấp dẫn khẩu vị. VỌP NƯỚNG CHẤM MUỐI TIÊU Món ăn này vừa mang hương vị đặc biệt,vừa mang nìêm vui bất tận cho khách tứ phương.Cà Mau giờ rất hiếm vọp vì nó trở thành món ăn quý hiếm.Lựa lọai vọp to,rửa sạch để ráo nước,sắp vào đĩa.Gia vị gồm muối tiêu chanh thêm bột ngọt,các lọai rau cải.Lò than cháy đều,đặt lên bàn,để vỉ nướng lên trên.Đặt vọp lên vỉ,có thể nhiều con một lúc.Khi tiệc đến lúc nào hứng thì món vọp nướng sẽ làm cho rôm rả hết ý!Lúc vọp há miệng là vừa chín tới,ăn rất ngon.Để lâu sẽ chín quá,khô nước,thịt dai ,nhạt nhẽo 1001 món đặc sản Cà mau Cá lóc thuộc hèm,rắn bông súng nướng,tôm tái chanh,rùa rang muối,dơi quạ tiềm thuốc bắc,dơi quạ nấu cháo đậu xanh,rắn hổ xé phay…những món đặc sản của ng Cà mau từ thời khẩn hoang cho đến bây giờ có thể kể vài trăm trang sách.
Trả lời 15 năm trước
ĐỀN HÙNG "Dù ai đi ngược về xuôi, Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba." Giỗ tổ Hùng Vương hay lễ hội đền Hùng là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc gia ở Việt Nam. Hàng năm, vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, hàng vạn người từ khắp mọi miền tổ quốc đổ về đền Hùng để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc. Đền Hùng là một khu du lịch nổi tiếng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú cách Hà Nội 100km về phía Bắc. Đó là một quần thể kiến trúc bao gồm lăng tẩm, đền, miếu cổ kính. Do những biến động của lịch sử và sự khắc nghiệt của thời gian, các kiến trúc ở đền Hùng đã được trùng tu và xây dựng lại nhiều lần, gần đây nhất là vào năm 1922. Từ chân núi đi lên, qua cổng đền, điểm dừng chân của du khách là đền Hạ, tương truyền là nơi bà Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng. Trăm trứng ấy đẻ ra trăm người con, năm mươi người theo cha xuống biển, bốn chín người theo mẹ lên núi. Người con ở lại làm vua, lấy tên là Hùng Vương (thứ nhất). Qua đền Hạ là đền Trung, nơi các vua Hùng dùng làm nơi họp bàn với các Lạc hầu, Lạc tướng. Trên đỉnh núi là đền Thượng là lăng Hùng Vương thứ sáu (trong dân gian gọi là mộ tổ) từ đền Thượng đi xuống phía Tây nam là đền Giếng, nơi có cái giếng đá quanh năm nước trong vắt. Tương truyền ngày xưa các công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con vua Hùng Vương thứ mười tám, thường tới gội đầu tại đó. Lễ hội đền Hùng bao gồm những hoạt động văn hóa, văn nghệ mang tính chất nghi thức truyền thống và những hoạt động văn hóa dân gian khác... Các hoạt động văn hóa mang tính chất nghi thức còn lại đến ngày nay là lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Đó là hai nghi lễ được cử hành đồng thời trong ngày chính hội. Đám rước kiệu xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đó là một đám rước tưng bừng những âm thanh của các nhạc cụ cổ truyền và màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống... Dưới tán lá mát rượi của những cây trò, cây mỡ cổ thụ và âm vang trầm bổng của trống đồng, đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá huyền thoại để tới đỉnh núi Thiêng. Góp phần vào sự quyến rũ của ngày lễ hội, ngoài những nghi thức rước lễ còn những hoạt động văn hóa quần chúng đặc sắc. Đó là những cuộc thi hát xoan (tức hát ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Vĩnh Phú, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến. Người hành hương tới đền Hùng không chỉ để vãn cảnh hay tham dự vào cái không khí tưng bưng của ngày hội mà còn vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người hành hương đều cố thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương. Trẩy hội Đền Hùng là truyền thống văn hóa đẹp của người Việt Nam. Trong rất nhiều những ngày hội được tổ chức trên khắp đất nước, hội đền Hùng vẫn được coi là hội linh thiêng nhất bởi đó là nơi mỗi người Việt Nam nhớ về cội nguồn và truyền thống oai hùng, hiển hách của cha ông. "Dù ai đi ngược về xuôi, Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba." Giỗ tổ Hùng Vương hay lễ hội đền Hùng là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc gia ở Việt Nam. Hàng năm, vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, hàng vạn người từ khắp mọi miền tổ quốc đổ về đền Hùng để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc. Đền Hùng là một khu du lịch nổi tiếng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú cách Hà Nội 100km về phía Bắc. Đó là một quần thể kiến trúc bao gồm lăng tẩm, đền, miếu cổ kính. Do những biến động của lịch sử và sự khắc nghiệt của thời gian, các kiến trúc ở đền Hùng đã được trùng tu và xây dựng lại nhiều lần, gần đây nhất là vào năm 1922. Từ chân núi đi lên, qua cổng đền, điểm dừng chân của du khách là đền Hạ, tương truyền là nơi bà Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng. Trăm trứng ấy đẻ ra trăm người con, năm mươi người theo cha xuống biển, bốn chín người theo mẹ lên núi. Người con ở lại làm vua, lấy tên là Hùng Vương (thứ nhất). Qua đền Hạ là đền Trung, nơi các vua Hùng dùng làm nơi họp bàn với các Lạc hầu, Lạc tướng. Trên đỉnh núi là đền Thượng là lăng Hùng Vương thứ sáu (trong dân gian gọi là mộ tổ) từ đền Thượng đi xuống phía Tây nam là đền Giếng, nơi có cái giếng đá quanh năm nước trong vắt. Tương truyền ngày xưa các công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con vua Hùng Vương thứ mười tám, thường tới gội đầu tại đó. Lễ hội đền Hùng bao gồm những hoạt động văn hóa, văn nghệ mang tính chất nghi thức truyền thống và những hoạt động văn hóa dân gian khác... Các hoạt động văn hóa mang tính chất nghi thức còn lại đến ngày nay là lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Đó là hai nghi lễ được cử hành đồng thời trong ngày chính hội. Đám rước kiệu xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đó là một đám rước tưng bừng những âm thanh của các nhạc cụ cổ truyền và màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống... Dưới tán lá mát rượi của những cây trò, cây mỡ cổ thụ và âm vang trầm bổng của trống đồng, đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá huyền thoại để tới đỉnh núi Thiêng. Góp phần vào sự quyến rũ của ngày lễ hội, ngoài những nghi thức rước lễ còn những hoạt động văn hóa quần chúng đặc sắc. Đó là những cuộc thi hát xoan (tức hát ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Vĩnh Phú, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến. Người hành hương tới đền Hùng không chỉ để vãn cảnh hay tham dự vào cái không khí tưng bưng của ngày hội mà còn vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người hành hương đều cố thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương. Trẩy hội Đền Hùng là truyền thống văn hóa đẹp của người Việt Nam. Trong rất nhiều những ngày hội được tổ chức trên khắp đất nước, hội đền Hùng vẫn được coi là hội linh thiêng nhất bởi đó là nơi mỗi người Việt Nam nhớ về cội nguồn và truyền thống oai hùng, hiển hách của cha ông.
Trả lời 7 năm trước
khong hay