Hãy phân tích khổ thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng? ... Khi lòng ta đã hóa những con tàu.

Hãy phân tích khổ thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng? ... Khi lòng ta đã hóa những con tàu.

Trả lời 8 năm trước
Không phải ngẫu nhiên Chế Lan Viên đã lấy hai câu thơ trên đề tựa cho bài Tiếng hát con tàu của mình. Một bài thơ ra đời trong những năm tháng miền Bắc đang cuồn cuộn chảy theo dòng thác xây dựng lại đất nước. Một bài ra đời trong muôn ngàn sợi nhớ sợi thương vấn vương lòng nhà thơ, lòng tác giả. Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên đã cất tiếng chào đời như thế - ví như một vì sao đến giao hòa với tập Điêu tàn Chế Lan Viên để kết thành một vòm tinh tú, tỏa sáng lung linh trên bầu trời văn học Việt Nam. Tựa như khi nhắc đến sông là nhắc đến vô vàn gợn sóng, nhắc đến trăng là nhắc đến muôn triệu sao óng ánh trên trời, thì đây, nhắc đến Chế Lan Viên là nhắc đến Tiếng hát con tàu. Bài thơ nhỏ mà tư tưởng lớn. Bài thơ bình dị mà sáng hơn sao, gợi nhiều suy nghĩ hơn sóng biển. Có ai đó đã bảo “thơ là một nghệ thuật kì diệu của trí tưởng tượng". Đành rằng, những định nghĩa về thơ là vô biên, nhưng theo ý tôi thì thơ đâu chỉ là một nghệ thuật tưởng tượng bình thường. Đó là cả một sự suy tư liên kết từ hiện thực, từ quá khứ, từ tương lai. Nếu thơ anh không có hiện thực mà bản thân anh đã trải qua, bài thơ ấy bỗng trở nên sáo rỗng, rập khuôn một cách kệch cỡm. Trở về với Tiếng hát cọn tàu ta nhận thấy hiện thực nổi lên rất rõ trong thơ Chế Lan Viên. Một hiện thực mà nhà thơ đã lăn mình vào, ôm ấp nâng niu suốt mười mấy năm trường! Đã qua rồi một cậu bé mười bảy tuổi với nỗi đau khôn nguôi về đất nước Chàm “loang lổ máu", một cậu bé với mắt nhìn oán hận “mang chi xuân đến gợi thêm sầu”. Thay vào đó là một chàng trai trưởng thành, hồn lồng lộng gió thời đại, tay vơ trọn muôn nỗi niềm ray rứt của thế hệ tương lai và hiện tại:
Trả lời 8 năm trước
Kết thúc bằng một câu hỏi. Mở đầu cũng bằng một câu hỏi. Để từ đó ta nhận ra một Chế Lan Viên luôn trăn trở, lo âu, luôn tự hỏi mình, hỏi người để sống và vươn tới. Câu hỏi như một lần nhấn mạnh cuối cùng: đã sống thì phải sống như một con người chân chính. Một con người có thủy có chung có nghĩa có tình. Một con người biết hi sinh sự ấm áp nhỏ bé của riêng mình mà gánh lên vai trách nhiệm đối với đất nước. Cả bài thơ là một bản giao hưởng kéo con người về kỉ niệm, về quá khứ, về tình người. Chế Lan Viên đã yêu như yêu những người dân Chàm! Chế Lan Viên đã yêu quá khứ, thủy chung với kỉ niệm như ông đã từng yêu người, yêu đời! Không gian trong bài thơ tụ lại rồi loãng ra, trải dài qua suốt mười năm kháng chiến. Một bài thơ nhỏ mà thời gian thật là dài và nỗi nhớ thật là lớn. Những dòng thơ vẫn mang âm hưởng mạnh mẽ của một thời (Điêu tàn) nhưng thấp thoáng sau đó là cả một trời tươi sáng, nơi mặt đất nở hoa và ngàn cây ra trái, nơi những ánh dương của một tâm hồn mới soi rọi đến muôn đời. Thơ hay không bởi vì kĩ thuật viết, mà bởi vì con mắt nhìn của nghệ sĩ càng k ết đọng càng sâu sắc bao nhiêu thơ càng dể sống, càng để bất tử . Thời gian ba mươi năm đã qua đi. Chế Lan Viên cũng đã ra đi. Nhưng cũng hình người đã nói “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất đã hóa tăm hồn". Chế Lan Viên ra đi là để những mảnh đất nơi ông đã từng qua, từng sống để trở thành một tâm hồn bình dị với nhớ nhung tha thiết. Mảnh đất Việt này nhớ ông, một người lớn lên trong phong trào thơ đang chuyển mình trong cuộc đời mới của đất nước quê hương. Đọc thơ ông, hiểu thơ ông, ta biết thêm một Chế Lan Viên thủy chung nhân hậu, một Chế Lan Viên lúc nào cũng muốn mình và người sống tốt hơn, thi vị hơn và rồi bổng nhiên, tôi ước mình cũng có bài thơ hay như thế của riêng mình! Mình cũng là một người từng sống, từng yêu thương như Chế Lan Viên!