Tại Sao Hồ Chí Minh lại lựa chọn con đường quá độ đi lên Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam?

Tại Sao Hồ Chí Minh lại lựa chọn con đường quá độ đi lên Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam? những đặc trưng của Xã Hội Chủ Nghĩa mà chúng ta đang xây dựng

roi biet
roi biet
Trả lời 13 năm trước

Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nước ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và giải phóng dân tộc. Chính trong điều kiện đó, Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tìm thấy cơ sở lý luận chắc chắn cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng vô sản. Bác Hồ khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức: "Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn". "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Tư tưởng đó đã được Đảng ta khẳng định, được cả dân tộc hưởng ứng và đi theo. Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.

Sự lựa chọn này dựa trên cơ sở:

Chỉ có chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao động. Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ triệt để chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, là nguồn gốc sinh ra tình trạng người bóc lột người, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, cơ sở kinh tế đảm bảo cho nhân dân lao động thoát khỏi đói nghèo, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tạo điều kiện giải phóng và phát triển con người toàn diện. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Tính tất yếu của thời đại mới đã tạo khả năng và điều kiện để các dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, đem lại những nhận thức mới trong quan niệm và giải pháp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc một cách triệt để.

Sức mạnh và thành tựu của chủ nghĩa xã hội, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa đã thức tỉnh nhân loại, tạo khả năng đoàn kết các dân tộc để giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh huỷ diệt, buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh chính sách có lợi cho người lao động; tạo khả năng hiện thực cho các nước lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.

Trong hơn 7 thập kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt thành tựu quan trọng: Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất với quy mô và trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn về vật chất và tinh thần của nhân dân. Từ một nước Nga nghèo nàn và lạc hậu, sau một thời gian xây dựng đã trở thành một cường quốc của thế giới, đạt được bước tiến lớn trong nghiên cứu khoa học, chinh phục vũ trụ, có tiềm lực quân sự và quốc phòng hùng mạnh… tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển. Hàng trăm nước đã giành được độc lập dân tộc góp phần quyết định vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới và hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn đó.

Nhưng lịch sử loài người đã không đi theo con đường thẳng tắp và phong trào cách mạng cũng không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm, thậm chí có những thất bại hoặc thoái trào. Nhưng quan trọng hơn là từ trong sai lầm, khuyết điểm đó, tìm ra những nguyên nhân, rút kinh nghiệm để đưa phong trào cách mạng tiến lên. Đó mới là một thái độ nghiêm túc, đúng mực.

Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ do nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân trực tiếp là Đảng Cộng sản phạm những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức bắt đầu từ sự phản bội của người lãnh đạo chủ chốt; chủ nghĩa đế quốc can thiệp vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện "diễn biến hòa bình" ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự đổ vỡ đó không có nghĩa là sự sụp đổ của học thuyết về chủ nghĩa xã hội, không phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, bởi vì hiện nay một số nước xã hội chủ nghĩa vẫn đang tiếp tục đứng vững và phát triển. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: "Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là qui luật tiến hóa của lịch sử".

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bên cạnh những thành tựu, chúng ta cũng còn có khuyết điểm, yếu kém, những vấp váp sai lầm.

Đảng ta đã sớm nhận thức ra những thiếu sót, khuyết điểm và tự nhận khuyết điểm trước nhân dân, đã sửa chữa và sửa chữa có kết quả, đem lại lòng tin của nhân dân với Đảng. Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện vì chủ nghĩa xã hội, với quyết tâm và trí tuệ của toàn Đảng, sự tham gia tích cực của nhân dân, công cuộc đổi mới ở nước ta trong hơn 17 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, khẳng định đường lối đổi mới là đúng đắn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: "Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội".

Xét trên cơ sở lý luận và thực tiễn, cả tình hình trong nước và kinh nghiệm quốc tế, muốn thay đổi căn bản cuộc sống của người lao động từ kiếp nô lệ làm thuê trở thành người làm chủ, không có con đường nào khác ngoài con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Mọi con đường khác đều không được nhân dân ta chấp nhận. Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần kiên định vững vàng với mục tiêu, lý tưởng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Xuân Ngọc
Xuân Ngọc
Trả lời 4 năm trước

tóm gọn lại lý do bác Hồ chọn con đường quá độ lên xã hội chủ nghĩa là vì, bác đã tìm thấy cơ sở lý luận chắc chắn cho con đường cứu nước khi bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lenin và Người cũng khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức.

Đặc trưng của xã hội chủ nghĩa, tám đặc trưng đó là:

1. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2. Do nhân dân làm chủ.

3. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

4. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

5. Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; có điều kiện phát triển toàn diện.

6. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

7. Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

8. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Minh Nguyen
Minh Nguyen
Trả lời 4 năm trước

em tham khảo nguồn này nhé

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là vấn đề lý luận và thực tiễn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà lý luận và hoạt động thực tiễn hơn một thế kỷ qua. Rất nhiều trí tuệ của nhân loại đã suy tư, trăn trở và đề xuất kiến giải, dự báo, thể nghiệm về vấn đề này.

Thế kỷ XX được xem là thế kỷ của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, chúng ta đã chứng kiến những thành công cũng như các thất bại của quá trình lịch sử cách mạng vĩ đại ấy. Nhất là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới ở những năm 90 của thế kỷ XX đặt ra những tìm tòi, kiến giải mới về lý luận và thực tiễn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, khái niệm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác định khá rõ ràng. Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôtha, C. Mác có một câu nổi tiếng: Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.

Từ các tác phẩm của các nhà kinh điển về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, ta thấy, các ông đã khẳng định, thời kỳ quá độ là: thời kỳ cải biến cách mạng toàn diện và triệt để về kinh tế - xã hội và chính trị; nhà nước của thời kỳ ấy là nhà nước chuyên chính vô sản của giai cấp công nhân; thời kỳ ấy bao hàm nhiều giai đoạn liên tục kế tiếp nhau và biến đổi không ngừng. Đặc điểm bao trùm của thời kỳ quá độ là xã hội quá độ với sự hiện diện của những yếu tố của xã hội cũ tư bản chủ nghĩa và các nhân tố mới của xã hội chủ nghĩa… ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Qua các tác phẩm của C. Mác, Ph. Ănghen, V.I. Lê-nin ta thấy, các ông chỉ rõ 2 hai con đường của sự quá độ. Con đường thứ nhất là quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; và con đường thứ hai là quá độ gián tiếptừ các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Như thế có thể hiểu, con đường thứ hai nghĩa là không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội.

Thực ra, cả hai con đường lên chủ nghĩa xã hội đều tuân thủ nghiêm ngặt và biện chứng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, xem xét lịch sử nhân loại là một quá trình lịch sử tự nhiên, bao hàm trong đó sự vận động, biến đổi, với toàn vẹn tính liên tục, đứt đoạn và nhảy vọt. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là tuân thủ tính lên tục. Từ xã hội tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội là tuân thủ sự đứt đoạn và nhảy vọt. Liên tục hay đứt đoạn, tuần tự hay nhảy vọt đều là quy luật vận động biện chứng phổ biến của lịch sử nhân loại.

Dĩ nhiên, từ lý luận chủ nghĩa xã hội đến thực tiễn xã hội chủ nghĩa, từ lý thuyết xã hội chủ nghĩa đến chủ nghĩa xã hội hiện thực là một quá trình lịch sử với không ít chân lý và sai lầm. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu và sự thoái trào của phong trào xã hội chủ nghĩa thời gian qua, đòi hỏi chúng ta cần phải đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội; cần phải có sự nghiên cứu sâu sắc, hệ thống hơn quan điểm của các nhà kinh điển về thời kỳ quá độ, về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhằm thiết thực trả lời những vấn đề lý luận đang đặt ra trong quá trình phát triển của nước ta hiện nay trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.

Liên quan trực tiếp đến những vấn lý luận và thực tiễn này là sự khẳng định hay phủ nhận tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay. Để khẳng định thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, rõ ràng cần nghiên cứu sâu sắc một loạt vấn đề như: đặc điểm, đặc trưng của thời đại ngày nay; tình hình, đặc điểm của thế giới trong giai đoạn hiện nay; xu hướng phát triển hay tương lai, triển vọng của chủ nghĩa xã hội, của phong trào xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ XXI; đặc điểm, đặc trưng của chủ nghĩa tư bản hiện đại; những tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của chủ nghĩa xã hội trong lòng xã hội tư bản hiện đại; khả năng, triển vọng tiến lên chủ nghĩa xã hội của các nước đang phát triển,... Đặc biệt, cần nghiên cứu để thấy được những khuyết tật cố hữu của chủ nghĩa tư bản, những mâu thuẫn xã hội gay gắt không thể dung hòa của chủ nghĩa tư bản vẫn sẽ là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy và quyết định xu hướng phát triển tất yếu của thời đại ngày nay - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đồng thời, cần chỉ ra rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở cuối thế kỷ XX chỉ là sự thoái trào tạm thời của phong trào xã hội chủ nghĩa, là bước lùi biện chứng, tất nhiên trên con đường phát triển, không mang ý nghĩa quyết định đến xu hướng phát triển tất yếu của thời đại ngày nay.

Đối với chúng ta, vấn đề quan trọng là phải sớm làm rõ vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định cách mạng Việt Nam muốn đi đến thành công phải gắn liền với cách mạng vô sản thế giới, trước hết là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ, rồi sau sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Từ đó đến nay, Đảng ta luôn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn. Nhận thức, quan điểm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cũng như về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta ngày càng sáng rõ, có những bước phát triển mới phù hợp với thời đại.

Thành tựu nhận thức quan trọng nhất được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó xác định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Những đặc trưng này là những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà khi kết thúc thời kỳ quá độ, chúng ta phải đạt được. Đảng ta cho rằng để đạt các mục tiêu đó, chúng ta phải thực hiện tốt các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản sau: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Tuy nhiên, những đặc trưng mà Đảng ta đã xác định nói trên không phải là đã hoàn toàn đầy đủ, chính xác tuyệt đối, mà vẫn cần được tiếp tục bổ sung, chọn lựa cho phù hợp với thực tiễn luôn vận động, biến đổi của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Điều đó còn phụ thuộc vào tính tiên phong của lý luận, của sự tích cực đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội trong Đảng cũng như trong giới nghiên cứu lý luận. Vả lại, những đặc trưng đó cũng cần được cụ thể hóa, được luận chứng, giải thích một cách khoa học. Mặt khác, những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phải được thực hiện tốt trong thời kỳ quá độ cũng cần được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và được cụ thể hóa, vận dụng sáng tạo.

Cũng cần lưu ý rằng, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là sự quá độ chưa từng có nước nào trải qua. Đó là sự quá độ từ nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc thù này quy định quá trình xây dựng xã hội mới phải đặc biệt chú trọng việc nghiên cứu, tổng kết, góp phần tạo lập cơ sở khoa học của việc xây dựng đường lối cho những bước phát triển tiếp theo.

Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện chủ nghĩa xã hội không còn là một hệ thống; xu thế toàn cầu hóa đang gia tăng mạnh mẽ tác động đến mọi quốc gia, làm cho quan hệ giữa các quốc gia thay đổi, lợi ích đan xen, ràng buộc, tùy thuộc lẫn nhau; sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và thông tin làm thế giới “gần nhau” hơn... Do vậy, bối cảnh, điều kiện cho việc thực hiện sự quá độ độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng mang nhiều đặc điểm mới, cần phải được nghiên cứu, làm rõ, bởi điều đó cũng sẽ tác động, quy định hình thức, bước đi trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là sự phủ định sạch trơn, mà có thể chỉ là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và đương nhiên cả thượng tầng kiến trúc tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, phải vận dụng và tiếp thu những thành tựu khoa học và công nghệ, cũng như kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất, xã hội,... của chủ nghĩa tư bản để phát triển nhanh, rút ngắn và vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Với ý nghĩa và để đáp ứng yêu cầu nêu trên, khi triển khai đề tài “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, thuộc chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước KX.04.06/11-15, nhóm nghiên cứu đã tập trung vào 5 nội dung chính: 1. Cơ sở lý luận, phương pháp luận nghiên cứu về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; 2. Kinh nghiệm các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; 3. Bối cảnh mới của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay; 4. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam: Nhận thức, thực tiễn và những vấn đề đặt ra; 5. Quan điểm, giải pháp lý luận và thực tiễn nhằm thực hiện thành công các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Với 5 nội dung quan trọng này, đề tài được thực hiện bởi nhiều nội dung cụ thể khác nhau với 99 chuyên đề khoa học và một cuộc điều tra xã hội học với 1.800 phiếu tại 6 tỉnh đại diện cho các vùng trong cả nước.

nguồn: triethoc.hcmussh.edu.vn

Minh Hiếu
Minh Hiếu
Trả lời 4 năm trước

B tham khảo nha

Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Điều đó được lý giải bởi những lẽ sau:

Thứ nhất,trong lịch sử xã hội loài người giữa hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH) cũ và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời kỳ quá độ (TKQĐ). Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các HTKTXH. Song, không phải HTKTXH này kết thúc hoàn toàn rồi HTKTXH tiếp sau mới ra đời. Giữa HTKTXH cũ bị thay thế và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, một TKQĐ. Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội, một chế độ xã hội mới hoàn toàn về chất so với các chế độ xã hội trước đó lại càng đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách, khó tránh khỏi những va vấp, đổ vỡ tạm thời. Trong “Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị...”

Thứ hai,học thuyết Mác - Lê-nin chứng minh rằng, loài người với tính cách một chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể về không gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong chi phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các HTKTXH từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Mà có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Sự bỏ qua này đã và đang diễn ra trong lịch sử. Từ thực tiễn lịch sử xã hội loài người có thể rút ra ba nhận xét:một là, khi vạch ra một sơ đồ tiến hóa xã hội từ HTKTXH thấp lên HTKTXH cao hơn là chúng ta đã trật tự hóa theo thời gian các trình độ phát triển của các nền văn minh nhân loại nằm rải rác trong không gian.Hai là, khi một HTKTXH đi đến chỗ kết thúc, thì xã hội có thể tiến lên một trong nhiều HTKTXH cao hơn, chứ không nhất thiết chỉ tiến lên một HTKTXH cao hơn.Ba là, nhận xét có tính chất khái quát: loài người nói chung thì nhất định phải trải qua cả năm HTKTXH, nhưng từng nước cụ thể thì không nhất thiết phải tuần tự trải qua cả năm HTKTXH, mà có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH, đi tắt để tiến lên HTKTXH cao hơn, tùy thuộc điều kiện lịch sử - cụ thể đặc thù của từng nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan. Lê-nin viết "... tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ, mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó"

Thứ ba,cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế.

Thứ tư,lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta chứng minh rằng, quá độ lên CNXH là con đường duy nhất để nước ta thoát khỏi ách đô hộ của thực dân đế quốc, để thực hiện thành công cách mạng giải phóng dân tộc.