Bán Địa Long Điều Trị Ung Thư Bạch Cầu, Ung Xương Và Ung Thư Não

600.000

1157 Lê Đức Thọ , F13, Gò Vấp





Địa Long có bán tại cửa hàng Đức Thịnh Gò Vấp giá theo thời gian

sdt: 0912 858 167

Địa long còn có tên giun đất, khưu dẫn. Vị thuốc địa long từ rất sớm đã được ứng dụng

trong y học cổ truyền.



Địa long còn có tên giun đất, khưu dẫn. Vị thuốc địa long từ rất sớm đã được ứng dụng trong y học cổ truyền. Địa long có chứa Allolobophor, các axit amin có tác dụng hạ huyết áp, chống co giật, hạ sốt, trấn tĩnh... Hiện nay còn có quy trình chế biến các loại moriamin (các axit amin để tiêm truyền) từ giun đất.

Địa long còn gọi là giun đất được sử dụng trong y học cổ truyền hơn 1000 năm qua. Ở Việt Nam, từ những năm đầu thế kỷ XX, toa thuốc và tên bài thuốc sử dụng Địa Long chữa tai biến mạch máu não đã xuất hiện, được in lại trong cuốn sách “200 bài thuốc quý” của lương y Lê Văn Tình vào năm 1940.



Địa long, vị thuốc trấn kinh, thông mạch

Giun đất cho vị thuốc (địa long).



Theo Đông y, địa long vị mặn, tính hàn; vào can tỳ phế vị thận. Có tác dụng thanh nhiệt, bình can, trấn kinh giật, thông mạch khu phong, trừ thấp lợi thủy. Dùng cho các trường hợp sốt cao kinh giật, động kinh, bồn chồn kích động, ho suyễn khó thở, bại liệt phong thấp, viêm đường tiết niệu, sốt rét cơn. Liều dùng: 5 - 10g, nấu hầm, sao rang, sắc pha hãm.

Địa Long ngăn ngừa tai biến:

Theo kết quả nghiên cứu của y học hiện đại, các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc đã chứng minh Địa long có chứa enzyme Fibrinolytic có khả năng thủy phân mạnh mẽ, làm đứt các sợi fibrin – tác nhân chính hình thành cục máu đông trong lòng mạch. Đây chính là cơ chế dùng Địa long giúp dự phòng tai biến mạch máu não. Ngoài ra Địa long có tác dụng lợi tiểu, giãn cơ trơn thành mạch máu vì vậy giúp hạ huyết áp. Địa long còn chữa những trường hợp nhiệt phát cuồng, kinh phong co giật, bán thân bất toại, miệng mắt méo lệch.

Địa long được dùng làm thuốc trong các trường hợp:

Hoạt lạc, giảm đau: Dùng cho chứng bệnh thấp nhiệt trở lạc, đau khớp, sưng nóng đỏ đau, đi tiểu vàng mà ít.

Thuốc viên hoạt lạc: xuyên ô đầu 8g, thảo ô đầu 8g, địa long khô 8g, thiên nam tinh 8g, nhũ hương 6g, một dược 6g. Tất cả nghiền thành bột, phun rượu sau đó làm hồ hoàn. Mỗi lần uống 4g, uống với nước sắc kinh giới hay nước sắc thang Tứ vật.

Thổ miết trùng 20g, toàn quy 40g, địa long khô 20g, đan sâm 40g, tế tân 8g, can khương 40g, bạch giới tử 40g, ngô công 20g, thục địa 16g, phòng kỷ 40g, ma hoàng 8g, quế chi 4g, hồng hoa 20g, sinh cam thảo 20g, quan quế 40g, ngưu tất 20g. Chữa viêm tắc tĩnh mạch.

Thanh nhiệt, cắt cơn kinh giật:

Thuốc giun đất: địa long khô 12g, liên kiều 12g, câu đằng 16g, kim ngân hoa 16g, bọ cạp 4g. Sắc uống. Hoặc lấy địa long khô 12g, chu sa 4g, làm thành hoàn. Mỗi ngày uống 4g.

Dùng ngoài: địa long tươi 250g, đường đỏ 63g. Giã nát, bọc miếng vải thưa, đắp lên rốn.

Lợi niệu thông lâm: địa lông khô, củ tỏi, lá khoai lang, liều lượng bằng nhau đều 20g. Giã nát, đắp lên rốn. Có thể uống kèm với các thuốc lợi niệu. Dùng khi thấp nhiệt làm cho tiểu tiện không lợi, hoặc bí đái do kết sỏi.

Thanh phế, cắt cơn suyễn:

Địa long khô 12g. Sắc uống. Có thể lấy giun đất nghiền thành bột, ngày uống 2 lần, mỗi lần 4g. Dùng cho chứng bệnh ho, hen suyễn, trẻ em ho gà... do hỏa nhiệt.

Địa long khô, cam thảo sống, liều lượng bằng nhau. Tất cả nghiền thành bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 6g. Trị hen phế quản.

Trị ung độc: địa long khô, rết, tổ ong vàng, bồ công anh rễ cây chàm mèo, bọ cạp, xác rắn lột mỗi vị 63g, bạch hoa xà thiệt thảo (cây lưỡi rắn) 250g. Tất cả nghiền chung thành bột mịn, luyện với mật làm hoàn 8g. Ngày uống 2 lần (sáng, chiều), mỗi lần 1 viên, uống với nước ấm.

Kiêng kỵ: Người tỳ vị hư nhược không có thực nhiệt không dùng.

TS. Nguyễn Đức Quang

Trong bài trả lời bạn đọc về Con giun đất trên CTQ27, lương y Nguyễn Hữu Hiệp có nhắc đến bài thuốc “Thần dược cứu mệnh”. Nhân đây tôi xin kể thêm sự việc vào các năm 97-98 thế kỷ trước, bài thuốc này đã từng là “huyền thoại một thời”. Không ai ngờ được rằng từ một “tư liệu y học” đăng nhiều kỳ trên tờ báo địa phương tỉnh Long An, sau được một loạt các tạp chí không phải chuyên ngành y dược như Thế giới mới,... đăng giới thiệu, thế là dẫn đến một phong trào sử dụng bài thuốc cho nhiều bệnh chứng nan y phát triển rầm rộ từ Nam ra Bắc.

 

             Thời đó quả là một cơ hội vàng cho nhiều cửa hiệu kinh doanh thuốc. Giá Địa long đắt như tôm tươi, từ khoảng trên dưới ba mươi ngàn đã đẩy lên đến cả trăm ngàn/1kg, mà nhiều khi không đủ hàng để bán. Theo quy luật cung cầu, có những nhà thuốc, thậm chí cả những bệnh nhân sau một vài lần sử dụng đã có thể tự xào xáo chế biến hàng loạt cái gọi là “thần dược” ấy để tung ra bán trên thị trường nhằm trục lợi. Không ai có thể phủ định một số hiệu quả thực tế của bài thuốc, nhưng thổi phồng tác dụng quá đáng để cho kẻ xấu lợi dụng, gây khủng hoảng niềm tin cho người bệnh, bởi càng gieo hy vọng tràn trề, càng chuốc thất vọng não nề  cho nhau, thì thật là đáng tội. Sau hơn một năm suy nghĩ, thậm chí cả day dứt trăn trở nữa, tôi đã quyết đinh viết bài “cuối năm con hổ, tính sổ con giun” hay “hiểu đúng về vị thuốc Địa long” đăng trên chuyên san y dược của địa phương. Việc xảy ra 6 - 7 năm rồi, nay có dịp trở lại nói thêm về con Giun đất ngỏ hầu tiếp chuyện cùng bạn đọc CTQ.


Giun đất còn gọi là Trùn, Địa long, Thổ long, Khâu dẫn..., là một vị thuốc khá quen thuộc, được sử dụng lâu đời trong Đông y. Trong Thần Nông Bản Thảo Kinh, quyển sách thuốc đầu tiên ra đời khoảng hai ngàn năm trước, với tên “Bạch cảnh khâu dẫn” nghĩa là trùn có cổ trắng, hay như dân ta quen gọi là trùn khoang cổ, vị thuốc này bị xếp vào loại “hạ phẩm”, theo cách phân loại của sách này chỉ những vị thuốc ít nhiều có độc, không được dùng lâu dài, chủ yếu để trị bệnh chứ ít tác dụng bổ dưỡng. Các sách thuốc đời sau, kể cả danh tác Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân ở Trung Quốc, cũng như Nam Dược Thần Hiệu của Tuệ Tĩnh Thiền sư và Lĩnh Nam Bản Thảo của Hải Thượng Lãn Ông đều phân Giun đất vào bộ côn trùng. Quyển Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam của GS, TS. Đỗ Tất Lợi cũng không ngoài lệ ấy. Nếu phân loại thuốc theo tác dụng dược lý cổ truyền mà hầu hết sách Đông dược mới biên soạn hay áp dụng, theo một số đầu sách ít ỏi chúng tôi có được thì  giun đất được xếp vào rất nhiều nhóm thuốc khác nhau.  Sách Lâm sàng thường dụng, Trung dược thủ sách (Học viện Trung y Hồ Nam biên soạn, NXB Vệ sinh Nhân dân, Bắc Kinh, 1972) xếp vào nhóm “khu phong thấp”. Sách Dược học cổ truyền của GS.Trần Văn Kỳ (T.2, NXB Tp.HCM,1997) cũng xếp theo nhóm này. Sách Tân biên Trung y học khái yếu  (do 9 Học viện Trung y Trung Quốc phối hợp biên soạn, nxb VSND, Bắc Kinh, 1974) xếp vào nhóm thuốc “trấn tiềm an thần”. Sách Giản minh Trung y học (Đại học Tân Y Hà Bắc biên soạn, nxb VSND, Bắc Kinh, 1974) xếp vào nhóm “bình can tức phong”. Tương tự là sách Thuốc cổ truyền và ứng dụng Lâm sàng của GS. Hoàng Bảo Châu (NXB Yhọc, Hà Nội, 1999) xếp vào nhóm “trấn kinh an thần” loại “tức phong chỉ kinh”. Trong khi đó sách Dược Tính Đại Từ Điển (Hồ An Bang biên soạn, Trường Hưng thư cục, xuất bản ở Hương Cảng, không ghi năm in) lại xếp giun đất vào nhóm “tả hạ thuỷ ẩm “ (lợi tiểu). Chúng tôi buộc phải dẫn nhiều sách của TQ vì các tài liệu chính thống ở nước ta như bộ giáo trình Bài Giảng YHCT in đi in lại nhiều lần vẫn bỏ quên vị thuốc này. Nhưng mục đích quan trọng của trưng dẫn xếp loại không thống nhất là muốn nói lên một sự thật về tính công dụng đa năng của vị thuốc Giun đất.


 

Nhìn chung, theo tài liệu cổ, Giun đất có vị mặn, tính hàn, nhập các kinh Tỳ, Vị, Can, Thận, có tác dụng thanh nhiệt, trấn kinh, lợi tiểu, giải độc, định suyễn; dùng chữa bệnh nhiệt phát cuồng, kinh phong co giật, ho suyễn, bán thân bất toại, miệng mắt méo lệch, tiểu tiện khó khăn, phong thấp đau nhức,... Theo kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại của các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc, tác dụng thanh nhiệt (hạ sốt) của Giun đất là do thành phần lumbrifebrin; tác dụng phá huyết (làm giảm độ dính của máu và độ ngưng tập của hồng cầu) là do chất lumbritin; tác dụng lợi tiểu, chữa đau nhức khớp xương là do có nhân purin. Các thực nghiệm còn chứng minh các thành phần đạm có trong giun đất có tác dụng kháng histamin (giải độc), làm giản khí quản (hiện nay ở TQ đã chế thành ống tiêm dịch giun đất gọi là địa long chú xạ dịch để điều trị hen suyễn trên lâm sàng), hạ huyết áp và ức chế sự co bóp của ruột non. Thành phần Giun đất còn có một độc tố là terrestro-lumbrolysin có thể gây co giật. Có lẽ nhờ thành phần này mà Giun đất được dùng điều trị các chứng cấp mạn kinh phong theo nguyên tắc “lấy độc trị độc”, nhưng phải theo liều lượng và phối hợp thuốc nghiêm mật. Liều dùng thông thường của Giun đất ghi nhận qua các tài liệu là 6-12g dưới dạng thuốc sắc, 2-4g dưới dạng thuốc bột (khô). Việc bào chế cũng là một khâu rất quan trọng trong dùng thuốc Đông y, tuỳ từng trường hợp mà có cách bào chế riêng, xin giới thiệu một vài ứng dụng lâm sàng của Giun đất:

            Dùng làm thuốc thông kinh hoạt lạc, giảm đau: Sử dụng cho thể thấp nhiệt ứ trệ kinh lạc, khớp xương sưng nóng đỏ đau, tiểu tiện ít mà vàng. Có thể phối hợp với các vị thuốc nhiệt như Ô đầu, Phụ tử để điều trị đau khớp xương thể hàn thấp. Bài thuốc điển hình là Hoạt lạc đơn: Xuyên ô đầu, Thảo ô đầu,  Địa long, Thiên nam tinh mỗi thứ 8g, Nhủ hương, Một dược mỗi thứ 6g, tất cả tán bột, lấy rượu khuấy hồ làm hoàn. Mỗi lần uống 4g với nước sắc Kinh giới để trị thấp đàm ứ huyết trở trệ kinh lạc gây đau.

            Một bài thuốc khác có công dụng bổ khí hoạt huyết, hành ứ tán trệ, dùng trị di chứng trúng phong (tai biến mạch máu não): liệt nửa người, miệng mắt méo lệch, nói khó, miệng chảy nước dãi, tiểu không tự chủ... cho kết quả tốt là bài Bổ dương hoàn ngũ thang của tác giả Vương Thanh Nhiệm: Hoàng kỳ 40g, Đương quy vĩ, Xuyên khung, Địa long mỗi thứ 8g, Đào nhân 12g, Hồng hoa 6g, Xích thược 12g; sắc uống ngày một thang.

 

Dùng trị sốt cao, co giật: Có thể chọn một trong các bài sau:

- Địa long tán: Địa long 12g, Toàn yết 4g, Câu đằng 16g, Kim ngân hoa 16g, Liên kiều 12g; sắc uống.

- Địa long 12g, Châu sa (Thuỷ phi) 4g; tán bột làm viên, mỗi lần uống 4g.

-Trùn đất sống 160g, Đường đỏ 40g, giã nhuyễn, bọc vải đắp lên bụng dưới.

 Dùng làm thuốc lợi tiểu, trị đái khó: Đi tiểu không thông do thấp nhiệt, hoặc bí tiểu do sỏi tiết niệu, dùng Trùn tươi, đầu củ Tỏi, lá Khoai đỏ giã nhuyễn đắp lên vùng rốn, hoặc phối hợp thuốc lợi thuỷ để uống.

Dùng làm thuốc thanh phế bình suyễn: Đối với ho suyễn do hoả nhiệt thượng viêm, như hen phế quản khó thở, trẻ em ho gà, có thể dùng:

- Địa long 12g sắc uống.

- Hoặc Địa long tán bột mỗi lần uống 4g, ngày 2 lần.

- Hoặc Địa long và Sinh cam thảo bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 6g, ngày 2 lần.

            Ngoài ra, xin giới thiệu một bài thuốc mới được báo cáo có khả năng trị ung thư và hạ huyết áp, trích từ sách Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách như sau: Địa long, Ngô công, Phong phòng (tổ ong), Bồ công anh, Bản lam căn, Toàn yết, Xà thoát (xác rắn lột), mỗi thứ 40g, Bạch hoa xà thiệt thảo 320g, tất cả tán bột, luyện mật làm hoàn; mỗi lần uống 8g, ngày 2 lần.

Những bài thuốc trên đây chủ yếu để giới thiệu ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Giun đất hay Địa long, thầy thuốc có thể tham khảo vận dụng phép gia giảm, điều chế (nhất là đối với các vị thuốc có độc như Phụ tử, Ô đầu, Châu sa...) thích hợp với từng người bệnh cụ thể mới đem lại kết quả trong điều trị. Người bệnh không được tự ý sử dụng, bởi không nắm được các chống chỉ định của thuốc. Thuốc là con dao hai lưỡi cần được điều khiển bởi bàn tay lành nghề mới phát huy hết tác dụng và tránh được tác hại của nó.

 

L/Y Phan Công Tuấn


Trích dẫn địa long trị ung thư trên trang giadinh.net.vn

http://giadinh.net.vn/song-khoe/thuc-hu-chuyen-luong-y-khai-pha-phuong-phap-dung-dia-long-uc-che-te-bao-ung-thu-20140606021221486.htm

Nghe đồn hiệu quả của bài thuốc đặc biệt này, nhiều bệnh nhân đã tìm về huyện Gia Bình, tỉnh Hải Dương để nhờ cậy lương y Lượng nhưng vẫn chưa thực sự yên tâm về công dụng điều trị ung thư của địa long. Để rộng đường dư luận, PV báo GĐ&XH Cuối tuần đã gặp chính lương y Lượng và các chuyên gia hàng đầu để tìm hiểu bài thuốc đặc biệt này.

Dùng giun đất làm chủ vị

Chúng tôi gặp lương y Lượng khi ông đang sao thuốc Nam cho một người bệnh. Đã bước qua tuổi 85, lương y vẫn còn rất minh mẫn. Nghe chúng tôi nói về mục đích cuộc viếng thăm, ông cho hay, dòng họ nhà ông đã trải qua mấy đời làm thuốc nhưng cơ duyên có được bài thuốc hỗ trợ điều trị ung thư bằng địa long lại đến một cách tình cờ. “Lần đó, tôi gặp một giáo sư người Mỹ gốc Hoa tên Tô Quốc Lực (vốn là bạn của cha ông Lượng – PV) và được tặng một cuốn y văn”, ông kể lại. Nắm được kiến thức phong phú lưu lại trong y văn này, ông lại lên đường đi khắp mọi miền đất nước, từ Cao Bằng, Lạng Sơn đến Thanh Hóa… để nghiên cứu, tìm tòi các bài thuốc hay, vị thuốc quý của dân tộc. Dựa trên những thu thập, ông sáng tạo, kết hợp để cho ra bài thuốc hỗ trợ điều trị ung thư.

Cách chữa ung thư của của ông Lượng rất đặc biệt, đó là sử dụng con địa long. Ông lý giải: “Tôi cho bệnh nhân uống con giun đất (địa long) dài như con lươn, mổ bỏ ruột, tán thành bột. Đây là loại thuốc cực kỳ quý, cực tốt”. Ông chỉ dùng giun đất làm một trong các vị thuốc để hỗ trợ điều trị một số loại như ung thư bạch cầu (ung thư máu), ung xương và ung thư não.

Cuộc trò chuyện với chúng tôi, ông Lượng không công bố toàn bộ thành phần dược liệu của các bài thuốc hỗ trợ điều trị ung thư đang áp dụng. Tuy thế, ngoài địa long, ông cũng tiết lộ thêm một số dược thảo khác như Bồ công anh, bạch hoa xà và cây huyết dụ và lá đu đủ. Ông Lượng cho biết: “Nói chung, mỗi bài thuốc hỗ trợ điều trị ung thư của ông có khoảng 10 đến 15 vị”.  Một nguyên lý chữa ung thư của ông Lượng nữa là không cho người bệnh ăn nhiều chất đạm. Theo ông, chữa bệnh bằng cây thuốc thì phải hiểu rõ về cây thuốc dựa trên 4 nguyên tắc: tinh vị (đắng ngọt hay chua chát), tính năng (nóng hay lạnh), tác dụng chữa cái gì và liều lượng (một ngày uống bao nhiêu gam?). Nắm được những nguyên tắc này, thầy thuốc mới bốc thuốc chữa bệnh được cho từng người.




Thực hư chuyện lương y khai phá phương pháp dùng địa long ức chế tế bào ung thư 2

Ông Lượng nhận được bằng khen vì sự nghiệp đông y của Hội Đông y Việt Nam. Ảnh TG

Hướng dẫn dùng địa long

Nói về phương pháp dùng giun đất cho các bài thuốc hỗ trợ điều trị ung thư, lương y Lượng chia sẻ: “Sử dụng giun đất làm thuốc cũng rất đơn giản. Người bệnh nếu không có điều kiện đi mua thì có thể tự làm như sau: Giun làm sạch đất, sao nóng già, lấy củ gừng giã nhỏ, hòa 1/2 bát nước vẩy vào chảo rồi sao trộn đều để tẩy cho hết mùi tanh. Sau đó, sao vàng và tán thành bột chia làm 20 gói. Bên cạnh đó, mỗi ngày lấy nửa lạng đỗ đen và nửa lạng đỗ xanh sao vàng, hạ thổ tán thành bột. Mỗi ngày, người bệnh lấy ba lạng rau ngót đun kỹ lấy nước để nấu với cả ba thứ bột địa long, đỗ đen, đỗ xanh. Khi bắc ra khỏi bếp, có thể cho một ít mật ong quấy đều cho bệnh nhân ăn mỗi ngày 2 lần sáng tối. Nếu bệnh nhân khó ăn thì cho bột địa long vào giữa miếng chuối để ăn”.

Với việc sử dụng bột địa long, ông Lượng cũng lưu ý: “Tôi chỉ giới thiệu mang tính chia sẻ, còn việc áp dụng uống bột địa long hỗ trợ điều trị ung thư phải kèm với thuốc Nam thì mới có tác dụng ức chế các tế bào ung thư”. Ngoài việc ăn bột địa long mỗi ngày, bệnh nhân còn phải uống thuốc sắc do ông bốc. Thuốc đun hai tiếng rồi chắt lấy một chén thuốc chia làm 3 lần uống trong ngày, uống trước bữa ăn 15 phút. Người bệnh uống thuốc ít nhất 3 tháng mới bắt đầu có kết quả, và ít nhất phải khoảng hơn 5 - 6 tháng thì mới có thể ức chế bệnh được tế bào ung thư. Ông cho biết thêm: “Thuốc của tôi rất rẻ, chi phí mỗi tháng khoảng 600.000 đồng. Ai nghèo quá thì tôi miễn cho luôn. Có lúc, tôi còn phải nhờ xe ôm mang thuốc cho bệnh nhân không lấy tiền. Lỡ người ta bỏ thuốc thì chết mất vì chữa cái này phải rất kiên trì”.

Để kiểm chứng tác dụng các bài thuốc hỗ trợ điều trị ung thư, đặc biệt với chủ vị là địa long của lương y Lượng, chúng tôi đã dày công tham vấn nhiều chuyên gia. Tuy nhiên, ý kiến phản hồi khá trái chiều. Theo TS. Trần Hữu Thăng - Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Tổng hội Y dược học Việt Nam thì: “Không có bất cứ tài liệu nào nói  giun đất có tác dụng chữa ung thư. Về mặt hóa học, giun đất chứa chất lumbrifebrin, lumbritin, terrestro, lumbrolyzin, chất béo, muối vô cơ, hypoxamthin và nhiều chất acid amin như alanin, adenine, cholin, lysine và các vitamin A, D, E. Y học cổ truyền Việt Nam dùng giun đất điều trị các bệnh về huyết áp, tim mạch, thần kinh, hen suyễn, sốt rét... Nghiên cứu hiện đại cho thấy giun đất chứa chất Lumbriferin giúp thanh nhiệt, hạ sốt. Các thành phần đạm trong giun có tác dụng kháng Histamin, làm giãn khí quản. Điều này lý giải việc y học cổ truyền thường dùng địa long để trị hen suyễn, viêm phế quản, khó thở. Nó cũng chứa hàm lượng rất cao axit Linoleic, cùng khoáng chất vi lượng chống oxy hóa. Selen giúp tăng cường miễn dịch, nâng cao sức đề kháng trong cơ thể. Trong các tác dụng của Địa long thì hỗ trợ hạ huyết áp được quan tâm nhiều nhất. Ngoài ra, vị thuốc từ giun đất còn giúp phòng ngừa tai biến mạch máu não. Theo Đông y, dược liệu địa long có vị mặn, hơi tanh, tính lạnh, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, bình can, chỉ suyễn, thông kinh lạc, lợi tiểu, hạ huyết áp, được dùng riêng với liều hằng ngày sắc uống hoặc dưới dạng bột”.

Trao đổi thêm về phương pháp chữa ung thư bằng giun đất, ông Mai Thế Thành - Giám đốc Trung tâm Phát triển dược liệu sạch, người đã và đang nghiên cứu các phương pháp điều trị ung thư, đánh giá: “Người ta thường dùng giun đất kết hợp với đỗ đen, rau ngót để hỗ trợ điều trị ung thư máu. Vì bản chất của ung thư máu là mất cân bằng các thành phần trong máu nên dùng giun đất để làm mát máu và bổ máu. Phương pháp này gần tương đương với thập toàn đại bổ. Tuy nhiên, nếu chỉ dùng giun đất chữa ung thư máu thì vẫn chưa đủ, cần kết hợp với châm cứu bấm huyệt để sinh máu”. Nói về một số vị thuốc mà lương y Lượng sử dụng, ông Thành cho rằng: “Các vị mà ông Lượng đưa ra đều có thể sử dụng chữa ung thư, tuy nhiên sử dụng và kết hợp như thế nào cho hiệu quả thì cần chi tiết hơn. Bạch hoa xà có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu ung, kháng nham, lợi thấp. Đây từng là cây thuốc gây sốt vì có người cho rằng chữa được ung thư, tuy nhiên nó cũng chỉ được dùng để hỗ trợ điều trị mà thôi. Bồ công anh thanh nhiệt, giải độc, tán sưng tiêu ung thường được dùng để trị đinh nhọt sưng tấy, tuyến vú viêm, nhiễm trùng đường tiểu, amidal viêm cấp tính. Là đu đủ dùng thì thường dùng để hỗ trợ điều trị ung thư gan. Còn cây huyết dụ có tác dụng cầm máu, bổ huyết, tiêu ứ”.

Bài thuốc cần được nghiên cứu, kiểm nghiệm

Theo lương y Nguyễn Đức Hai - Giám đốc Công ty Dược Hùng Vương thì giun đất có tác dụng phá các mạch máu đông nên có thể người ta dùng để chữa ung thư máu, tuy nhiên để biết tác dụng của loại này đến đâu thì cần phải được nghiên cứu kỹ càng. GS.TS Lê Thế Trung (nguyên giám đốc Bệnh viện 103, chủ tịch Hội ung thư Hà Nội) cũng cho biết: “Trường hợp lương y ở Hải Dương, bản thân tôi cũng đã về tận nhà để gặp nhưng cũng chưa có thể kết luận được hiệu quả tối đa của các bài thuốc hỗ trợ ung thư bằng địa long. Tôi cho rằng, bài thuốc cần thêm sự kiểm nghiệm khoa học”.












Bình luận

HẾT HẠN

0912 858 167
Mã số : 11432711
Địa điểm : Hồ Chí Minh
Hình thức : Cần bán
Tình trạng : Hàng mới
Hết hạn : 07/02/2021
Loại tin :

Thường

Để mua hàng an toàn trên Rao vặt, quý khách vui lòng không thực hiện thanh toán trước cho người đăng tin!

Gợi ý cho bạn